Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2011

Khi Biển Đông minh chứng đa cực theo nghĩa quân sự

Tác giả Robert D. Kaplan là chuyên gia cao cấp thuộc Trung tâm An ninh Mỹ Mới, đồng thời là thành viên của Ủy ban Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ.
Nguyễn Huy dịch từ Forein policy

Không riêng chỉ vị trí và dự trữ năng lượng khiến cho Biển Đông có tầm quan trọng địa chính lược then chốt, mà còn là ở những tranh chấp lãnh thổ tồn tại lâu dài xung quanh vùng biển này.

Đông Á có thể chia thành hai khu vực chính: Đông Bắc Á - với ưu thế là bán đảo Triều Tiên và Đông Nam Á với ưu thế Biển Đông. Trung tâm Đông Bắc Á là số phận của Triều Tiên. Khi xảy ra chiến tranh, các lực lượng mặt đất của Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc có thể gặp nhau ở nửa bắc của bán đảo với lý do của mọi sự can thiệp nhân đạo, thậm chí là khi họ cố tự mình định vị phạm vi ảnh hưởng.
Các vấn đề hải quân sẽ là thứ yếu. Nhưng cuối cùng một Triều Tiên thống nhất sẽ đưa vấn đề hải quân lên vị trí trung tâm, với một Triều Tiên lớn, Trung Quốc và Nhật trong sự đối trọng mỏng manh, chia tách nhau bởi Biển Nhật Bản, Hoàng Hải và Bột Hải. Nhưng vì Triều Triên vẫn tồn tại, giai đoạn Chiến tranh Lạnh của ịch sử Đông Bắc Á chưa hoàn toàn qua đi, và sức mạnh mặt đất có thể chiếm ưu thế trước sức mạnh biển.
Đông Nam Á lại khác hẳn, khi đã đi sâu vào giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh của lịch sử. Việt Nam tìm kiếm quan hệ gần gụi hơn với Mỹ. Trung Quốc sau nhiều thập niên hỗn loạn đã trở thành nền kinh tế năng động nhất thế giới, đang thúc đẩy lực lượng hải quân vượt ra ngoài biên giới đất nước, hướng tới cái họ gọi là "chuỗi đảo đầu tiên" ở Tây Thái Bình Dương.



Nước Hồi giáo khổng lồ Indonesia đang trỗi dậy trở thành một Ấn Độ thứ hai. Singapore và Malaysia cũng đang tăng tốc về kinh tế. Bức tranh tổng hợp là một nhóm quốc gia sẵn sàng nâng cao nhận thức về chủ quyền lãnh thổ vượt ra ngoài bờ biển của họ. Và nơi gặp gỡ địa lý của những quốc gia này cùng quân đội của họ chính là biển: Biển Đông.
Biển Đông nối kết các nước Đông Nam Á với Tây Thái Bình Dương, với chức năng như yết hầu của các tuyến đường biển toàn cầu. Đây là trung tâm hàng hải Âu Á, với các eo biển Malacca, Sunda, Lombok và Makassar. Mỗi năm hơn một nửa số lượng tàu buôn của thế giới và 1/3 toàn bộ hoạt động hàng hải đi qua những khu vực này.
Dầu được vận chuyển qua Eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, tới Đông Á thông qua Biển Đông nhiều hơn sáu lần số lượng đi qua Kênh đào Suez và 17 lần số lượng đi qua Kênh đào Panama. Gần 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc, gần 60% cung cấp năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, khoảng 80% nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc đi qua Biển Đông. Hơn thế nữa, Biển Đông được xác định có trữ lượng dầu là 7 tỉ thùng và hàng trăm nghìn tỉ mét khối khí tự nhiên - một tiềm năng khổng lồ.
Không riêng chỉ vị trí và dự trữ năng lượng khiến cho Biển Đông có tầm quan trọng địa chính lược then chốt, mà còn là ở những tranh chấp lãnh thổ tồn tại lâu dài xung quanh vùng biển này. Có những tranh chấp liên quan tới quần đảo Trường Sa nằm ở phía đông nam Biển Đông. Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với bốn nước Đông Nam Á về các đảo, quần đảo và vùng nước ở Biển Đông. Đặc biệt, Bắc Kinh đã tự đưa ra bản đồ chín đoạn còn gọi là đường lưỡi bò để khẳng định chủ quyền với hầu như toàn bộ vùng biển, bắt đầu từ đảo Hải Nam ở cực bắt Biển Đông kéo dài gần 2000km xuống phía nam giáp Singapore và Malaysia.
Kết quả là tất cả những nước liên quan tới Biển Đông đều ít nhiều phản đối Trung Quốc và vì thế trông chờ vào sự ủng hộ ngoại giao và quân sự từ Mỹ. Những xung đột trong tuyên bố chủ quyền có thể còn gay gắt hơn khi nhu cầu năng lượng tăng cao ở châu Á - tiêu dùng năng lượng ước tính lên mức gấp đôi vào năm 2030, và Trung Quốc chiếm khoảng một nửa trong số này - làm cho Biển Đông trở thành sự đảm bảo quan trọng hơn bao giờ hết với sức mạnh kinh tế khu vực. Rõ ràng, Biển Đông ngày càng trở thành một trại vũ trang, khi các bên tuyên bố chủ quyền không ngừng củng cố và hiện đại hoá lực lượng hải quân của mình.
Đặc điểm địa lý của Trung Quốc hướng nước này theo hướng Biển Đông. Trung Quốc nhìn về phía nam hướng tới một lòng chảo được hình thành theo chiều kim đồng hồ bởi Đài Loan, Philippines, đảo Borneo phân cách giữa Malaysia và Indonesia (cũng như Brunei), bán đảo Malay phân cách giữa Malaysia và Thái Lan, và đường bờ biển dài của Việt Nam. Và tất cả đều là những nước yếu hơn so với Trung Quốc. Giống như Biển Caribbe đánh dấu bởi những quốc đảo nhỏ và bao quanh bởi nước Mỹ to lớn, Biển Đông rõ ràng là nơi để Trung Quốc phô diễn sức mạnh.
Trên thực tế, vị trí của Trung Quốc ở khu vực này có nhiều nét tương đồng với vị trí của Mỹ với Caribbe hồi thế kỷ 19 và đầu 20. Mỹ công nhận sự hiện diện và tuyên bố chủ quyền của các cường quốc châu Âu ở Caribbe nhưng vẫn tìm cách thống trị khu vực. Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ năm 1898 và việc thiết lập Kênh đào Panama từ 1904 - 1914 đã báo hiệu sự xuất hiện của Mỹ như một cường quốc thế giới.
Hơn thế nữa, thống trị Lòng chảo Caribbe lớn hơn sẽ giúp Mỹ kiểm soát hiệu quả Tây Bán cầu, cho phép họ tác động tới cán cân sức mạnh ở Đông Bán cầu. Và ngày nay, Trung Quốc tự thấy mình trong tình thế tương tự ở Biển Đông, một phòng chờ của Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc khát khao sự hiện diện hải quân để bảo vệ nguồn cung năng lượng từ Trung Đông.
Tuy nhiên, có một nguyên nhân sâu xa hơn khiến Trung Quốc hướng ra Biển Đông và tiến vào Thái Bình Dương là: một phần của Trung Quốc đã bị các cường quốc phương Tây chia cách trong quá khứ gần đây sau khi có cả thiên niên kỷ là một siêu cường và một nền văn minh thế giới.
Trong thế kỷ 19, khi triều Thanh trở nên mục nát ở Đông Á, Trung Quốc mất khá nhiều phần lãnh thổ cho Anh, Pháp, Nhật và Nga. Thế kỷ 20 đã diễn ra cuộc chinh phục đẫm máu của người Nhật với Bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu. Nỗi hổ thẹn lên đến đỉnh điểm khi Trung Quốc buộc phải ký kết các thoả thuận đặc quyền ngoại giao trong thế kỷ 19 và 20, khiến phương Tây có được quyền kiểm soát nhiều phần của các thành phố Trung Quốc - khi ấy thường gọi là "hải cảng mở cho thương mại nước ngoài".
Vào năm 1938, như nhà sử học Đại học Yale Jonathan D. Spence mô tả trong một tác phẩm rằng: vì sự cướp bóc bất ổn cũng như cuộc nội chiến, đã có những lo sợ âm ỉ là "Trung Quốc sẽ bị chia cắt thành từng phần và không còn tồn tại như một quốc gia, và rằng bốn nghìn năm ghi lại trong lịch sử sẽ tiến tới hồi kết đầy thất vọng".
Việc Trung Quốc vội vã mở rộng là một tuyên bố rằng, họ sẽ không bao giờ để nước ngoài lợi dụng lần nữa.
Giống như lãnh thổ Đức tạo thành một tiền tuyến của Chiến tranh Lạnh, thì các vùng nước ở Biển Đông có thể hình thành một tiền tuyến trong những thập niên tới. Khi hải quân của Trung Quốc trở nên mạnh hơn và khi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông xung đột với những tuyên bố của các nước ven biển khác, thì các nước này sẽ buộc phải gia tăng khả năng hải quân của họ. Họ sẽ tìm cách cân bằng trước Trung Quốc bằng cách gia tăng quan hệ với Hải quân Mỹ kể cả khi lực lượng này phải phân chia các tài nguyên tới Trung Đông.
Thế giới đa cực là đặc điểm của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển Đông có thể cho thấy sự đa cực diễn ra thế nào theo ý nghĩa quân sự thực sự.


Chiến trường của thế kỷ 21 sẽ diễn ra trên biển
 Châu Âu là cảnh tượng trên đất liền còn Đông Á là một cảnh biển. Ở đó có sự khác biệt cơ bản giữa thế kỷ 20 và 21.

Những khu vực giao tranh nhất của toàn cầu trong thế kỷ trước diễn ra trên các vùng đất khô của châu Âu, đặc biệt là ở những miền đất bằng phẳng ở các biên giới phía đông và tây nước Đức. Nhưng trải qua nhiều thập niên, trục nhân khẩu học và kinh tế của Trái Đất đã dịch chuyển về phía cuối lục địa Á Âu, nơi hàng hải chiếm ưu thế trong các không gian giữa những trung tâm dân cư lớn.
Bởi cách giảng giải địa lý học và thiết lập những ưu tiên, nên diễn biến tự nhiên của Đông Á được lý giải là một thế kỷ của hải quân - hải quân ở đây được định nghĩa trong phạm vi rộng bao gồm cả đội hình chiến đấu trên không cũng như trên biển và ngày càng trở nên phức tạp. Vì sao vậy? Ví như Trung Quốc, đặc biệt khi giờ đây các vùng biên giới đất liền được đảm bảo hơn bao giờ hết kể từ thời nhà Thanh cuối thế kỷ 18, đã lao vào cuộc mở rộng sức mạnh hải quân không thể phủ nhận. Đó là sức mạnh biển mà Trung Quốc sẽ xóa bỏ được tâm lý hai thế kỷ bị nước ngoài "làm mưa làm gió" trên lãnh thổ của mình - buộc tất cả các nước xung quanh phản ứng.
Những dính líu quân sự trên đất liền và trên biển là rất khác nhau, với các ảnh hưởng chủ yếu tới các chiến lược lớn cần thiết để chiến thắng hoặc né tránh chúng. Chiến tranh trên đất liền liên quan tới dân thường, nên nhân quyền trở thành yếu tố quan trọng trong nghiên cứu chiến tranh. Cách tiếp cận với một cuộc xung đột trên biển giản đơn hơn, nhằm giảm thiểu hậu quả chiến tranh theo tính toán số học, tương phản rõ rết với những cuộc chiến trí tuệ góp phần định nghĩa các cuộc xung đột trước.



Thế chiến II là cuộc đấu tranh đạo đức chống lại chủ nghĩa phát xít, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về cái chết của hàng chục triệu người không tham chiến. Những cuộc chiến khác xảy ra tiếp theo, rồi gần đây hơn cả một cuộc đấu tranh đạo đức chống lại những phần tử Hồi giáo cực đoan đã thu hút Mỹ tiến sâu vào vùng núi ở biên giới Afghanistan, nơi cách cư xử nhân đạo với hàng triệu dân thường là rất quan trọng với sự thành công của chiến tranh.
Trong mọi nỗ lực ấy, chiến tranh và chính sách ngoại giao trở thành chủ đề không chỉ của riêng binh lính và các nhà ngoại giao, mà còn là của những người theo chủ nghĩa nhân văn và trí tuệ. Thực tế là, chống nổi dậy đại diện cho sự kết hợp đỉnh cao giữa các sĩ quan mang quân phục và những chuyên gia nhân quyền. Đó là kết quả cuối cùng của chiến tranh mặt đất phát triển thành một cuộc chiến tổng lực trong thời hiện đại.
Đông Á, hay chính xác hơn là Tây Thái Bình Dương, đang nhanh chóng trở thành trung tâm mới của các hoạt động hải quân thế giới, đã báo trước một động lực khác biệt về căn bản. Nó dường như sẽ ít tạo ra tình huống khó xử về mặt đạo đức giống như những gì xảy ra trong thế kỷ 20 và đầu 21, với ngoại lệ là một cuộc chiến mặt đất trên bán đảo Triều Tiên. Tây Thái Bình Dương sẽ hoàn trả các vấn đề quân sự về địa hạt hẹp của các chuyên gia quốc phòng. Nó không đơn thuần là bởi chúng ta đang đối diện với một địa hạt hải quân, nơi dân thường không hiện diện. Nó còn là bởi bản chất của chính các quốc gia ở Đông Á, trong đó có Trung Quốc.
Cuộc tranh giành ưu thế ở Tây Thái Bình Dương sẽ không nhất thiết dính líu đến chiến tranh; phần lớn những gì xảy ra sẽ diễn ra khá lặng lẽ và trong không gian biển trống, ở một nhịp độ chậm, ổn định thích nghi với ưu thế sức mạnh quân sự và kinh tế mà các quốc gia có được trong suốt lịch sử.
Đông Á là khu vực rộng lớn, trải dài gần như từ Bắc Cực tới Nam Cực - từ quần đảo Kuril tới New Zealand và đặc trưng bởi những bờ biển và quần đảo cách biệt. Biển tự nó giống như một rào cản trước hành động xâm lược, hay ít nhất ở mức độ mà đất liền không có. Biển không giống như đất liền, có thể tạo ra những biên giới xác định rõ ràng và có khả năng giảm nguy cơ xung đột.
Ở đây tính tới yếu tố tốc độ. Thậm chí những tàu chiến nhanh nhất cũng di chuyển tương đối chậm, nên sẽ gảim bớt nguy cơ hiểu nhầm và tạo thêm nhiều thời gian cho các nhà ngoại giao để xem xét lại những quyết định. Các lực lượng hải quân và không quân đơn giản không thể chiếm giữ lãnh thổ theo cách làm của bộ binh. Vì các vùng biển bao quanh Đông Á - trung tâm sản xuất toàn cầu cũng như là nơi hoạt động mua sắm quân sự ngày càng tăng - nên thế kỷ 21 sẽ là cơ hội tốt hơn so với thế kỷ 20 để tránh những cuộc xung đột quân sự lớn.
Tất nhiên, Đông Á đã chứng kiến những cuộc đối đầu quân sự lớn trong thế kỷ 20, nơi biển không thể ngăn chặn: Chiến tranh Nga - Nhật; gần một nửa thế kỷ nội chiến ở Trung Quốc với sự sụp đổ dần dần của triều đại nhà Thanh; những cuộc chinh phục của đế quốc Nhật Bản và tiếp theo là Thế chiến II ở Thái Bình Dương; Chiến tranh Triều Tiên; kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở Việt Nam... Thực tế là, đặc điểm địa lý của Đông Á với hàng hải là chủ yếu có rất ít ảnh hưởng tới những cuộc chiến này - với cốt lõi là những xung đột của thống nhất quốc gia hay đấu tranh giải phóng. Nhưng thời của những cuộc chiến ấy đã lùi xa. Các quân đội Đông Á, thay vì việc tập trung vào bộ binh trong nước công nghệ thấp, đang tập trung hướng ra bên ngoài với lực lượng hải quân và không quân công nghệ cao.
Nếu so sánh giữa Trung Quốc ngày nay với Đức vào đêm trước Thế chiến I sẽ có nhiều điểm khập khiễng. Đức là cường quốc trên đất liền, do vị trí địa lý của châu Âu còn Trung Quốc trước hết sẽ là cường quốc hải quân, do đặc điểm địa lý của Đông Á.



Trò đố chữ ở Biển Đông
Trung Quốc tiếp tục trì hoãn những nỗ lực đa phương để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ.
Bài viết của nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore Barry Wain. Tác giả từng là biên tập của nhật báo Phố Wall châu Á.

Ngoại trưởng Mỹ và người đồng cấp Trung Quốc. Ảnh: Wall Street Journal


Các chính khách không tiếc lời ca ngợi và coi đó là bước đột phá ngoại giao, giới phân tích thì nhanh chóng khẳng định sự lạc quan. Nhưng trên thực tế, thoả thuận ký kết tháng trước giữa Trung Quốc và ASEAN xung quanh mối quan hệ Biển Đông lại chẳng thay đổi điều gì.
Gặp gỡ tại Bali, hai bên đã nhất trí về tám hướng dẫn thực thi Tuyên bố Hành xử của các bên ở Biển Đông thông qua năm 2002. Trong bản tuyên bố, họ cam kết giải quyết những bất đồng một cách hòa bình, nỗ lực tự kiềm chế, và không làm gì để "phức tạp hóa hay leo thang tranh chấp".
Thỏa thuận Bali có thể chỉ vì ASEAN đã từ bỏ khẳng định rằng, hướng dẫn phải được bàn thảo giữa 10 nước thành viên ở tư cách một nhóm trước khi thảo luận với Trung Quốc. Điều này về cơ bản là sự nhượng bộ vô nghĩa. Các thành viên ASEAN dù thế nào cũng tự thảo luận với nhau, thực tế là họ có bổn phận như vậy, và Trung Quốc biết điều đó. Toàn bộ thỏa thuận như một trò đố chữ làm xói mòn bất cứ tuyên bố nào cho rằng, nó là dấu hiệu của tiến triển thực sự.
ASEAN và Trung Quốc giờ đây đã trở lại gần nơi họ bắt đầu khi ký kết tuyên bố, mà bản thân tuyên bố ấy không mang lại sự thỏa mãn cho một bộ quy tắc hành xử thực sự. Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á đã lãng phí 9 năm với một kết quả không có thực tế. Họ đã lao vào một trò chơi tuyên truyền chính trị - ngoại giao hơn là nỗ lực nghiêm túc để quản lý các khả năng xung đột tại Biển Đông.
Trong nhiều năm, ASEAN đã thuyết phục Trung Quốc nhất trí về một bộ quy tắc hành xử ràng buộc chặt chẽ hơn, có thể ngăn chặn Bắc Kinh khỏi việc xây dựng những tiền đồn quân sự mới hay tiến hành các hành động khiêu khích khác trong khu vực. Một thỏa thuận như vậy có thể bao gồm những đặc điểm địa lý cụ thể, xác định hành vi cụ thể có thể bị coi là không thể chấp nhận được và bao gồm những biện pháp trừng phạt nếu vi phạm quy tắc.
Trung Quốc phản đối, nhưng như những gì đã làm từ một thập niên trước, họ nhất trí về một thỏa thuận mơ hồ. Trong khi Trung Quốc chấp nhận rằng, một bộ quy tắc hành xử là mục tiêu đáng mong muốn, thì tự họ lại làm mọi cách để ngăn chặn bộ quy tắc ấy bằng cách khẳng định trong tuyên bố rằng, bất cứ thỏa thuận nào đều cần đạt được bằng sự đồng thuận.
Bước đi tạm thời
Cả hai bên đều thúc đẩy tuyên bố, coi nó như bước tạm thời đánh dấu sự tin tưởng chính trị ở mức cao hơn giữa họ và góp phần vào hòa bình, ổn định ở Biển Đông - nơi diễn ra tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa Trung Quốc và bốn nước Đông Nam Á, trong đó Trung Quốc tự đưa ra tuyên bố chủ quyền lớn nhất, hầu như bao trùm toàn bộ vùng biển. Trong khi đó, Đông Nam Á lại đang tận hưởng những lợi ích từ việc Trung Quốc gia tăng thương mại và đầu tư thông qua một thỏa thuận tự do thương mại ký kết năm 2002.
Tuyên bố đã minh chứng là không có hiệu quả. Mặc dù không một bên tuyên bố chủ quyền nào vi phạm các điều khoản xâm chiếm đảo đá hoặc đảo san hô không có người ở, nhưng một số bên lại áp dụng những cách thức khác để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình, và gây hấn nhất chính là Trung Quốc - với bản đồ 9 đoạn khẳng định chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông. Sau ít năm tương đối yên bình, căng thẳng trong khu vực lại gia tăng nguy hiểm trở lại.
Trong khi đó, sứ mệnh của Nhóm làm việc chung ASEAN - Trung Quốc trong việc thực thi tuyên bố lại bị đình trệ xung quanh phản ứng của Bắc Kinh về việc ASEAN thảo luận riêng rẽ trước khi gặp gỡ với Trung Quốc. Trung Quốc khăng khăng rằng, tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết song phương giữa các bên tuyên bố chủ quyền, chứ không theo con đường đa phương. Và quan chức ASEAN thì không hề nghi ngờ về việc Trung Quốc sử dụng vấn đề này để biện minh cho việc không thực thi tuyên bố.
Vào tháng 7, khi Diễn đàn Khu vực ASEAN tới gần, tất cả các bên quyết định "chiến thuật xác định lại quan điểm và làm dịu căng thẳng khi thời gian tới gần". Và ít nhất Trung Quốc đã phải thừa nhận, dù rất khôn khéo. Họ cho phép "hồ sơ tóm tắt" cuộc gặp giữa các quan chức Trung Quốc và ASEAN bao gồm cả ghi chú rằng, ASEAN có ý định tiếp tục tham vấn giữa các thành viên.
Tránh can thiệp từ Mỹ
Các nhà chiến lược thiết thực ở Đông Nam Á biết rằng, thông qua những hướng dẫn thực hiện tuyên bố hầu như không có tác dụng trong việc kiềm chế cách hành xử ngày một gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông. Sự kiềm chế đích thực với Trung Quốc là việc hiện diện của Hải quân Mỹ và cần phải có một mối quan hệ Mỹ - Trung ổn định.
Mỹ đã can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ ít nhất một lần. Năm ngoái, tại Diễn đàn khu vực ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố, Mỹ có "lợi ích quốc gia" trong tự do hàng hải ở Biển Đông. Nói về thỏa thuận năm 2002, bà nói: "Chúng tôi khuyến khích các bên đạt được thỏa thuận về một bộ quy tắc ứng xử".
Bắc Kinh hầu như chắc chắn nhất trí các hướng dẫn vì họ muốn trấn an ASEAN sau khi các tàu Trung Quốc dính dáng tới một số sự cố ở Biển Đông, khiến cả Việt Nam và Philippines lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Có lẽ Trung Quốc không muốn các thành viên ASEAN khuyến khích người Mỹ can thiệp lần nữa.
Mặc dù Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì nói rằng, nước này sẽ bắt đầu một bộ quy tắc hành xử "ở thời gian thích hợp", nhưng quan chức Đông Nam Á vẫn hoài nghi điều đó. Họ đơn giản không tin là Bắc Kinh đã thay đổi. Thực tế là, họ cho rằng Trung Quốc lại tìm ra cái cơ khác để hoãn thực thi tuyên bố.
Trung Quốc có thể đã tìm ra một cái cớ. Theo quan chức ngoại giao Đông Nam Á, Bắc Kinh gần đây thông báo với ASEAN rằng, họ muốn xóa bỏ sự nhượng bộ nhỏ nhặt - ý định tham vấn của ASEAN - ra khỏi "hồ sơ tóm tắt". 

Mỹ triển khai tàu chiến tàng hình đến Biển Đông
Tờ Sunday Times đưa tin, Mỹ đang triển khai các tàu chiến tàng hình thế hệ mới, tốc độ cao, đến các vùng nước tranh chấp ở Biển Đông.

Theo giới phân tích, đây là động thái có thể làm gia tăng căng thẳng giữa nước này với Bắc Kinh.

Biểu tượng sức mạnh Mỹ

Các tàu chiến tàng hình mới, với giá 440 triệu USD/chiếc, sẽ được triển khai ở các tuyến đường biển giữa Hong Kong và Singapore, cũng là nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với 4 quốc gia về các khu vực giàu tài nguyên dầu khí ở Biển Đông.

Tàu USS Independence có khả năng "tàng hình". Ảnh: usmra

Các tàu được thiết kế để tác chiến tại các vùng nước nông. Chúng có thể mang theo ba trực thăng, các đơn vị đặc nhiệm và các xe bọc thép có thể mở đường trước, trong khi tàu chiến có thể triển khai từ phía sau.

Phiên bản mới nhất do General Dynamics xây dựng mang tên USS Independence, là loại tàu chiến đa năng thuộc hàng nhanh nhất của Hải quân Mỹ hiện nay. Tàu vỏ nhôm, có khả năng "tàng hình", hạ thủy năm ngoái, được bảo vệ bởi pháo hạm Mk 110 57mm và các tên lửa nhằm vào mục tiêu trên không, mặt đất và dưới nước.

Tuy gọi là tàu tuần duyên nhưng loại tàu này có tầm hoạt động lên tới 10.000 hải lý (19.000 km) với nhiều khả năng khác nhau từ tình báo, tấn công, đến phá mìn. Loại tàu này được cho là "hiện đại hơn bất cứ tàu Trung Quốc nào được biết đến". Các chiến hạm tàng hình của Mỹ có thể "diệt tàu ngầm, phá mìn, trinh sát, do thám và đổ bộ" cũng như thực hiện sứ mệnh triển khai quân đội.

Tuy nhiên, chi phí cho tàu tàng hình khá đắt đỏ và gây tranh cãi. Các nghị sĩ Mỹ đã phàn nàn về chi phí của nó. Một số nhà phân tích quân sự thì cho rằng, chúng có thể bị tổn thương bởi các tên lửa chống hạm của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng được xem là biểu tượng khả năng sức mạnh Mỹ.

Hiện diện hơn ở châu Á

Thông tin mới đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có hành xử cứng rắn hơn trong tranh chấp chủ quyền hàng hải, đặc biệt tại biển Hoa Đông và Biển Đông với các nước láng giềng.

Gần đây nhất, ngày 10/8, Trung Quốc đã thử nghiệm trên biển với tàu sân bay đầu tiên. Con tàu này do Trung Quốc mua từ Ukraine với lý do ban đầu đưa ra là biến nó thành một sòng bạc nổi. Việc hạ thủy tàu sân bay mang tên Varyag diễn ra trong thời gian khá nhạy cảm. Lực lượng vũ trang của Trung Quốc đang tăng tốc hiện đại hóa - chi tiêu quân sự tăng trung bình hàng năm vào khoảng 15% kể từ năm 2000. Sau cả thập niên dài “ve vãn” khu vực Đông và Đông Nam Á, Bắc Kinh bắt đầu có lập trường cứng rắn và gây hấn hơn trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Tuy các quan chức Bắc Kinh khẳng định tàu sân bay này chỉ phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu và huấn luyện, nhưng nhiều nhà phân tính đã hoài nghi về tuyên bố này. Andrew Erickson, nhà nghiên cứu tại đại học Chiến tranh hải quân Mỹ cho biết: "Trung Quốc đã bắt đầu ở nơi nào đó. Một cặp vợ chồng mới cưới bắt đầu ngôi nhà mới, một cường quốc đang trỗi dậy muốn bắt đầu tàu sân bay".

Gần đây nhất, trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Australian, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách các vấn đề Đông Á - Thái Bình Dương Kurt Campbell đã cho rằng, chính sách đối ngoại của Washington cần chuyển khỏi Trung Đông và tập trung hơn vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Lời nói của ông phản ánh quan điểm trong chính quyền Tổng thống Obama là Washington quyết tâm tăng cường và mở rộng sự hiện diện ở châu Á. "Khi công du cùng Ngoại trưởng Mỹ tới châu Á, trước và sau Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), chúng tôi nhận thấy rõ ràng rằng điều mà nhiều người châu Á quan tâm là tính hiệu quả liên tục và sự liên quan của Mỹ trong khu vực", ông nói.

Mỹ ủng hộ giải pháp đa phương cho tranh chấp Biển Đông
Quốc hội Mỹ ủng hộ giải pháp đa phương và hòa bình đối với các tranh chấp trên Biển Đông - thượng nghị sĩ Jim Webb trao đổi với Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh chiều 23/8 tại Hà Nội.

Ông Jim Webb, Chủ tịch tiểu ban Đông Á - Thái Bình Dương, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, đến Việt Nam - chặng dừng chân cuối cùng trong chuyến thăm và làm việc tại 4 nước Đông Nam Á.

TTXVN cho hay ngày 23/8, trong lịch trình làm việc tại Hà Nội, thượng nghị sĩ Mỹ đã có cuộc gặp với Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Ông cũng có buổi làm việc với Học viện Ngoại giao Việt Nam.

Ảnh: TTXVN

Mỹ - đối tác chiến lược hàng đầu

Tại cuộc gặp, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đánh giá cao các chuyến thăm gần đây của thượng nghị sỹ Jim Webb tới Việt Nam và cảm ơn những đóng góp tích cực của ông đối với việc thúc đẩy quan hệ song phương cũng như những quan tâm của ông đối với các vấn đề hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực.

Bộ trưởng khẳng định trong triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam tiếp tục coi trọng quan hệ với Mỹ như một đối tác hàng đầu có ý nghĩa chiến lược.

Ông Jim Webb mong muốn tiếp tục góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ hai nước. Ông cũng khẳng định cá nhân và Quốc hội Mỹ sẽ tiếp tục quan tâm tới tình hình trong khu vực, khẳng định Quốc hội Mỹ ủng hộ giải pháp đa phương và hòa bình đối với các tranh chấp trên Biển Đông.

Thượng nghị sỹ cũng bày tỏ mong muốn các bên hợp tác sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong.

Tiếp ông Jim Webb, Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn mong muốn trong thời gian tới, hai bên tiếp tục trao đổi đoàn các cấp, nhằm tạo điều kiện để tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và cùng hợp tác phát triển.

Thượng nghị sĩ Jim Webb khẳng định với vai trò, nhiệm vụ của mình, trong thời gian tới sẽ tiếp tục có nhiều đóng góp cho việc tăng cường hơn nữa mối quan hệ Mỹ - Việt.

Trước đó, thượng nghị sĩ Jim Webb đã thăm, làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Ông đã có cuộc làm việc, trao đổi với bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, Chủ tịch HĐND thành phố. Hai bên đã trao đổi một số vấn đề liên quan đến việc hàn gắn vết thương chiến tranh; cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, một số vấn đề kinh tế, xã hội hai bên cùng quan tâm và tình hình Biển Đông.

Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb vừa qua đã đệ trình Quốc hội Mỹ một dự luật liên quan đến Biển Đông.

Đây là chuyến thăm thứ hai của ông trong năm nay. Lần trước nhất ông Webb thăm Việt Nam vào tháng 4/2011.

Theo dự kiến, Chủ tịch nước và Phó Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp thượng nghị sĩ Mỹ hôm 24/8.

Tân Đại sứ Mỹ muốn học tiếng Việt, trải nghiệm ẩm thực VN:
Đến Hà Nội hôm 20/8, tân Đại sứ Mỹ David Shear kỳ vọng phát triển quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cũng như bắt đầu nhiệm kỳ ở Hà Nội với việc học tiếng Việt như người tiền nhiệm của ông đã làm khá thuần thục.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội dẫn lời Đại sứ Shear phát biểu khi đến Việt Nam :  “Tôi mong đợi nhiệm vụ mới của mình với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam đã đạt được tiến bộ lớn trong hợp tác song phương và trong khu vực những năm gần đây, và tôi hy vọng sẽ phát triển tiến bộ đó thông qua làm việc chặt chẽ với các đối tác Việt Nam”.

Đại sứ Shear là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp có rất nhiều kinh nghiệm và chuyên về khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Sự nghiệp của ông tại Bộ Ngoại giao kéo dài gần 30 năm. Gần đây nhất, ông Shear giữ chức Phó trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Tân đại sứ Mỹ David Shear
Ông cũng từng là Phó Đại sứ tại Kuala Lumpur, và đi nhiệm kỳ ở Sappora, Bắc Kinh, Tokyo và thủ đô Washington. Ông nói được tiếng Trung Quốc, Nhật Bản và đang học tiếng Việt. Đại sứ Shear cũng có chứng chỉ bậc một môn đấu kiếm Nhật Kendo.

Được Tổng thống Obama đề cử từ cuối năm 2010, sau đó lần lượt được hai viện trong Quốc hội phê chuẩn, ông David Shear đến Hà Nội thay thế Đại sứ Michael Michalak, người đã rời Việt Nam hồi tháng 2/2011 và là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam thứ 5 kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1995.

Đại sứ mê ẩm thực Việt Nam

Xuất hiện khác với những người tiền nhiệm, ông Shear chuẩn bị cho sự có mặt tại Việt Nam với một clip ngắn gửi từ Washington đến Hà Nội. Trong đó, ông bày tỏ sự phấn khởi khi đến làm việc ở Việt Nam.

“Tôi nghĩ mối quan hệ giữa hai dân tộc Hoa Kỳ và Việt Nam có tiềm năng vĩ đại. Chúng ta đã có quan hệ kinh tế vững mạnh và thương mại đang ngày càng tăng mỗi năm”, tân Đại sứ lạc quan.

Không chỉ dành thời gian cho tiếng Việt như một phần công việc, ông Shear chia sẻ ước muốn “tìm hiểu mọi điều về lịch sử và văn hoá Việt Nam” bằng cách “đi khắp Việt Nam và gặp gỡ mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội”.

Cùng với ưu tiên phát triển quan hệ giáo dục, Đại sứ Shear cũng muốn thúc đẩy hợp tác sâu sắc hơn giữa hai nước trong lĩnh vực văn hoá như “tìm những điểm chung về âm nhạc, nghệ thuật và thể thao”. Tự nhận là người thích thú với ẩm thực, tân Đại sứ Mỹ cũng muốn "học hỏi tất cả những gì có thể về ẩm thực Việt Nam”.


Phát ngôn&Hành động: Tượng đài, đường cong và triết lý giáo dục

- Vị trí tượng đài của bà mẹ Việt Nam Anh hùng, câu chuyện "nhầm chỗ" liên quan đến làng giải trí, và cuộc khủng hoảng triết lý giáo dục là những lát cắt trong Phát ngôn & Hành động tuần này.
 
Tượng đài của Mẹ
Trong tuần vừa rồi, báo Sài Gòn Tiếp Thị (SGTT) có đăng loạt bài với nhan đề chung là "Tượng đài của Mẹ đặt ở đâu?", kể về cuộc đời của những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đang còn sống.
Đó là mẹ Sua ở ấp Thạnh Trị 2, xã Thạnh Trị, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Đó là mẹ Sơn ở xã Long Định, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Đó là mẹ Thum ở Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, Kiên Giang...
Ba bà mẹ đã có đứa con trai duy nhất, thậm chí cả chồng, hy sinh trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm chỉ có một mong ước duy nhất là được Nhà nước xây lại cho những căn nhà tình nghĩa đã quá xập xệ, mục nát, do được xây đã quá lâu rồi. Để khỏi phải chui vào bụi tre núp mưa bão, đi ở nhờ, hay luôn cánh cánh nỗi lo nhà sẽ sụp bất cứ lúc nào.
Ở đoạn kết của chùm bài này, sau khi kêu gọi mọi người hãy có những hành động cụ thể để giúp các bà mẹ nói trên, tác giả Trầm Hương đã viết: "Mỗi chúng ta, những người đang được sống hôm nay, xin hãy xây dựng tượng đài Người mẹ ngay trong tấm lòng mình. Có nhiều cách để tôn vinh những bà mẹ ấy. Sao không chăm sóc những tượng đài mẹ đang sống?"
Người viết chợt nhớ lại câu chuyện đã lùm xùm suốt một tháng nay, khi Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Phước Thanh ký quyết định xin bổ sung thêm 330 tỷ đồng, từ ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh, cho dự án xây dựng tượng đài mẹ Thứ, đã được khởi công từ 27.7.2009 với số vốn ngân sách được duyệt là 81 tỷ đồng, vì lý do chính là trượt giá và Thay đổi thiết kế?!
Câu chuyện lại được phát triển theo hướng hài hước, khi ông Giám đốc Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch Quảng Nam có tên là Đinh Hài đã lên tiếng giải thích trên công luận.
Khi phóng viên hỏi tại sao sở của ông lại bổ sung vốn trong lúc chính phủ đang tiết kiệm chi tiêu công và hạn chế đầu tư dàn trải, ông trả lời tỉnh bơ: "Thực ra đến thời điểm hoàn thành, người ta thường quan tâm đến tính mỹ thuật của tượng đài, chứ ít ai quan tâm công trình tốn bao nhiêu tiền."



Căn nhà tình nghĩa được xây đã rã mục, sắp đổ. Mỗi khi mưa giông, mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Sua nấp dưới lùm tre tránh bão. Ảnh: SGTT
Rồi với câu hỏi về căn cứ để đưa ra số tiền xin bổ sung, ông nói: "Sự trượt giá này nghiêng nhiều về tính mỹ thuật còn phần công trình thô khác thì không bao nhiêu."
Người viết xin được dành quyền bình luận cho quý độc giả. Còn về phần mình, người viết chỉ thấy lo lo cho anh bạn mới quen trong chuyến đi Cam Ranh vừa rồi là Đinh Tiến Dũng, được biết đến nhiều hơn với cái tên Giáo sư Cù Trọng Xoay trong mục "hỏi xoáy - đáp xoay" trên VTV3 vào tối thứ Bảy hàng tuần. Đinh Tiến Dũng thực sự sẽ có một đối thủ cạnh tranh nặng ký là ông giám đốc sở này, trong trường hợp ông này muốn nhảy vào lĩnh vực showbiz.
Thứ nhất, khả năng đối đáp của ông còn cao hơn Đinh Tiến Dũng một bậc, không chỉ là "xoay" mà phải gọi là "xoắn" mới đúng. Thứ hai, để thu hút sự chú ý của khán giả về tính hài hước của mình, ông cũng chẳng cần phải mất công nghĩ ra cái nghệ danh là GS Cù Trọng Xoay như Đinh Tiến Dũng. Nghệ danh của ông thuộc loại "của nhà trồng được" mà.
Tất nhiên, có thể là điều may mắn, là đề án này vẫn phải chờ sự thông qua của chính phủ mới, được thành lập sau cái quyết định nói trên của Chủ tịch Quảng Nam chừng hai chục ngày. Người viết còn nhớ rằng cách đây 6 năm, người đã ngồi ở cái ghế hiện nay của ông Lê Phước Thanh và hiện nay đang ngồi ở ghế Phó Thủ tướng phụ trách mảng nội chính và thanh tra, đã từng tâm sự với người viết rằng tỉnh có nhiều bà mẹ Việt Nam Anh hùng nhất chính là tỉnh nghèo nhất, do phải giải quyết những hậu quả khốc liệt nhất và dai dẳng nhất của cuộc chiến.
Ông Nguyễn Xuân Phúc nói: "Vào những dịp đền đáp công ơn của các bà mẹ Việt Nam anh hùng, Quảng Nam luôn phải trích thêm ngân sách tỉnh để tặng tiền, tặng quà cho các mẹ. Bởi phần tiền, hay quà, theo qui định của Nhà nước, quá nhỏ nhoi."
Chắc hẳn ở một vai trò khá quan trọng trong việc phê chuẩn dự án này, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ phải cân nhắc kỹ. Người viết xin được mạn phép trình bày thêm đôi điều với "Ông Phúc 'Quảng Nôm' - Người đồng hành cùng cơ chế".
Về việc xây dựng tượng đài cho một người mẹ đã có 9 con ruột, 2 con rể và một cháu ngoại hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, như một sự tôn vinh cho đức hy sinh cao cả của những bà mẹ Việt Nam, là điều không thể bàn cãi.
Thế nhưng, việc bỏ tới hơn 400 tỷ đồng, gấp 5 lần số tiền được phê duyệt, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước như hiện nay, cho một dự án tượng đài, đã khiến dư luận và công luận đồng loạt đặt ra những băn khoăn.
Thứ nhất là trong khi nhiều Bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác - những tượng đài sống - vẫn rất cần sự trợ giúp của ngân sách nhà nước, để có thể sống nốt những ngày cuối đời với một cách bớt âu lo hơn. Như ba bà mẹ mà báo SGTT đã đề cập chẳng hạn.
Thứ hai là bản thân tỉnh Quảng Nam, ngoài việc phải chăm lo cho những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đang sống, hàng năm vẫn phải đối mặt với hậu quả của thiên tai, như bão lũ, với biết bao nhiêu người dân bị mất nhà mất cửa, mất kế sinh nhai. Nếu dự án này được thông qua thì liệu mùa bão lũ sắp tới, ban lãnh đạo mới của tỉnh sẽ lấy tiền đâu lo cho dân? Hay lại trông chờ vào lòng hảo tâm của đồng bào các tỉnh bạn - những người có cuộc sống cũng ngày một khó khăn hơn?


Ảnh phác họa tượng đài mẹ Nguyễn Thị Thứ của tác giả Đinh Gia Thắng
Thứ ba là tượng đài này cũng là biểu tượng cho lòng bất khuất và đức hy sinh cao cả của những người phụ nữ Việt Nam nói chung trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc nhằm giữ vững độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.
Những người con, người cháu của mẹ Thứ đã hy sinh trong hai cuộc chiến kéo dài suốt 30 năm để non sông liền một dải vào năm 1975. Thế nhưng, một phần biển đảo của Việt Nam vẫn còn bị nước ngoài chiếm đóng, hay phong toả.
Theo thiển nghĩ của người viết, mẹ Thứ, dưới suối vàng, ắt hẳn sẽ vui hơn khi biết số tiền mà người ta định xây khu tượng đài hoành tráng cho mẹ sẽ được dùng một phần để hỗ trợ cho những ngư dân Quảng Nam vẫn kiên trì bám biển, góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia ở ngoài đảo xa. Bởi chính họ là những người đã tiếp nối cái sự nghiệp cao cả mà vì nó những người con, người cháu của mẹ Thứ đã hy sinh cuộc sống của mình.
Việc có tiếp tục dự án tượng đài mẹ Thứ hay không, và, nếu tiếp tục, thì với qui mô nào, người viết không dám lạm bàn thêm. Chỉ có điều, trong bất cứ trường hợp nào, mẹ Thứ, cũng như tất cả các bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác, dù còn sống hay đã mất, đều phải có tượng đài trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, để họ luôn nghĩ tới trong hành động của mình. Đúng như lời kết của đồng nghiệp Trầm Hương cho loạt bài trên SGTT của chị.
"Đường cong" - cong nhầm chỗ


Các bà mẹ Việt Nam Anh hùng lại xuất hiện trong một sự kiện văn hoá khác. Đó là "Đêm Mỹ nhân", diễn ra vào 14.8 ở Sunspa Resort ở Quảng Bình, vì mục đích quyên góp từ thiện. Có điều, lần này, họ không phải là những nhân vật chính của những bài báo, mà chỉ là cái nền tương phản để dư luận và giới truyền thông trút cơn "thịnh nộ" xuống đầu những nhân vật trong giới showbiz.
Sau chương trình này, dư luận đã lên tiếng phản ứng gay gắt với cách ăn mặc mà họ coi là "phản cảm" của nhiều ca sĩ, như Minh Hằng, Hoàng Thùy Linh, Yến Trang... Đặc biệt, Thu Minh, người nổi tiếng với ca khúc "Đường cong", cũng như vương miện Nữ hoàng của "Điệu nhảy hoàn vũ", cũng nằm trong danh sách này.
Cùng với các ca sĩ nói trên, chủ nhân của ca khúc nổi tiếng "Đường cong" bị coi là ăn mặc "quá thiếu vải" trước đông đảo khán giả, trong đó có bà mẹ Việt Nam anh hùng, và học sinh - sinh viên nghèo khó, mồ côi.
Để rồi sau đó, ngày 18.8, Cục Nghệ thuật Biểu diễn (Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch) đã có công văn gửi cho Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Bình yêu cầu làm rõ việc nghệ sĩ mặc phản cảm trong chương trình từ thiện "Đêm mỹ nhân".
Chính điều này cũng làm nhoà đi kết quả mà ban tổ chức của chương trình "Đêm Mỹ nhân", khi họ quyên góp được 460 triệu đồng từ các nhà hảo tâm. BTC đã trích ra 57 triệu đồng để trao cho các sinh viên nghèo mồ côi cha mẹ, còn lại số tiền quyên góp được đã gửi đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Bình để chuyển tới các gia đình khó khăn, VTC News đưa tin.
Trao đổi với báo chí, ông Cục trưởng Vương Xuân Biên cho biết: "Quan điểm của cục là yêu cầu Sở VH-TT&DL Quảng Bình làm rõ và nếu có sai phạm thì phải xử phạt theo quy chế."
Câu chuyện các ca sĩ ăn mặc "thiếu vải" là một đề tài được bàn tán từ lâu, và tốn không ít giấy mực của báo chí, cũng như không ít cuộc hội thảo của các cơ quan quản lý, nhưng chưa có hồi kết. Bởi ăn mặc thế nào là chuyện "gu" của từng người, từng giới, từng lứa tuổi.


Hoàng Thùy Linh và Minh Hằng biểu diễn trong chương trình Đêm mỹ nhân, Ảnh: Dân trí
Vả lại, việc cục của ông Biên cho đến nay vẫn chưa ra được qui định cụ thể là váy (hay quần) của ca sĩ ngắn tới đâu, áo hở ngực tới đâu, vải mỏng tới mức nào, được coi là vi phạm, cũng cho thấy thêm khía cạnh phức tạp của vấn đề.
Hơn nữa, cũng chính ông Biên, trong cuộc trao đổi đó, có nói rằng "không phải cứ thấy đẹp ở chỗ này thì có thể mặc biểu diễn ở những chỗ khác". Nghĩa là ông cũng không thấy cách ăn mặc của những ca sĩ được nêu danh là "phản cảm", nếu ở hàng ghế khán giả không phải là các bà mẹ Việt Nam Anh hùng...
Nếu tinh ý một chút, có thể nhận thấy rằng khán giả chủ yếu của chương trình này là những người đến nghỉ ở Sunspa Resort, được xếp hạng 5 sao, và một số có chức vị. Tức là đối tượng chính của buổi biểu diễn là những "đại gia", hay chí ít cũng thuộc tầng lớp khá giả trong xã hội.
Chắc chắn chương trình có làm hài lòng họ thì họ mới chịu bỏ tiền làm từ thiện. Vả lại, trong khung cảnh bên bãi biển thơ mộng và phóng khoáng như vậy, biểu diễn như vậy là phù hợp.
Ngoài ra, chắc chắn những ca sĩ xuất hiện trong chương trình cũng đã được thông qua từ trước, và ai cũng có thể đoán trước được phần nào Hoàng Thuỳ Linh, hay Minh Hằng, sẽ ăn mặc và nhảy nhót bốc lửa thế nào. Họ là những ngôi sao giải trí chứ mà người ta phải "mục sở thị" và "cảm nhận", chứ không phải những giọng hát mà người ta có thể thưởng thức bằng chiếc tai nghe, hay trên xe hơi.
Trong chương trình "Đêm Mỹ nhân", người viết thấy tiếc nhất cho "Đường cong" Thu Minh, một giọng ca hay và có sự truyền cảm thực sự. Nhưng, rủi thay, cô lại "cong" nhầm chỗ.
Vấn đề nằm ở chỗ có nhất thiết phải mời các mẹ Việt Nam Anh hùng và các em học sinh nghèo tới đó không? Đằng nào thì các nghệ sĩ, người mẫu, trong chương trình, cũng sẽ đến thăm họ vào ngày hôm sau.
Có vẻ như ban tổ chức đã hơi tham lam, khi tranh thủ "tri ân" các mẹ, và biểu hiện nghĩa cử với các em nhỏ nghèo luôn. Để đỡ phải tổ chức một chương trình ca nhạc khác, phù hợp hơn với những đối tượng này?
Và, vô hình trung, họ đã khiến cho những người mà họ muốn "tri ân", muốn thể hiện "nghĩa cử", cảm thấy bị thương tổn. (Tại sao các đồng nghiệp không thử phỏng vấn xem các bà mẹ và các em nghĩ gì nhỉ, thay vì "phẫn nộ" thay cho họ?)
Trong khi đó, Linh-Minh-Trang-Hằng, những người cố hết mình, trong khả năng và sở trường của họ, để "Đêm Mỹ nhân" đạt được hiệu quả cao nhất, theo mục tiêu đề ra là quyên góp từ thiện, lại trở thành những "tội đồ".
Ông Vương Xuân Biên và các cộng sự của mình đã bắt đúng huyệt, khi gửi công văn cho Sở VH-TT-DL Quảng Bình. Là những người tham gia ban tổ chức, họ là những người phải chịu trách nhiệm lớn nhất. "Thậm chí nhà quản lý văn hóa ở địa phương cũng chưa ý thức được việc đó", ông Biên nói.
Đặc biệt là họ đã không chịu rút kinh nghiệm từ sự cố "Lý Nhã Kỳ" trong chương trình "Bản giao hưởng Điện Biên", cách đây ngót nửa năm.
Hồi đó, dùng cách nói của ông Vương Xuân Biên, màn tiếp thị "hàng" Việt Nam chất lượng cao của cô nữ diễn viên dòng phim giải trí này có thể tạo ấn tượng "ngọt ngào" ở những sân khấu giải trí, nhưng lại tạo cảm giác "lợm giọng" ở vở chính kịch nhằm tôn vinh Đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp - người mà ngày hôm qua, 25.8.2001, vừa tròn 100 tuổi. Nhất là lại được truyền hình trực tiếp cho đồng bào cả nước, và kiều bào ở nước ngoài nữa.
Cuộc khủng hoảng triết lý giáo dục


Triết lý giáo dục Việt Nam là vấn đề được thảo luận sôi nổi tại cuộc hội thảo do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức tại ĐH Sư phạm TP.HCM vào đúng ngày kỷ niệm 66 năm Cách mạng Tháng. Nổi cộm nhất trong hội thảo chính là triết lý giáo dục - một vấn đề đã được đề cập tới từ hơn chục năm nay qua nhiều hội thảo.
Tuy nhiên, dưới con mắt của nhiều nhà giáo dục, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách tận cùng. Và kết cục là nền giáo dục đang phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề.
Đặc biệt nhất, theo nhà giáo Nguyễn Chương Nhiếp, đến từ Trường ĐHSP TP.HCM, gần 40 năm cải cách giáo dục, không phải Việt Nam không nỗ lực, không đầu tư đúng mức, nhưng càng cải cách, giáo dục càng đuối, càng lạc hậu so với nhu cầu thực tiễn.
Ông chỉ ra nguyên nhân rằng cái triết lý giáo dục mà ông cha đã xây dựng hàng ngàn năm và phát huy tác dụng trong lịch sử đã không còn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội của thế kỷ 21. Bởi, theo ông, nó bị ảnh hưởng nhiều bởi Nho giáo và ý thức hệ phong kiến.
TS Hồ Thiệu Hùng, nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM, đã tiếp tục phát triển quan điểm trên. Ông cho rằng thế hệ trẻ Việt Nam dứt khoát phải trở thành thế hệ "con hơn cha", tức là muốn đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo trước hết phải yêu cầu nhà trường giúp cho người học biết tư duy độc lập, khuyến khích dám tư duy độc lập, không sợ sai, không sợ trái bài văn mẫu.
"Khuyến khích tư duy độc lập là một khâu đột phá trong đổi mới giáo dục Việt Nam trong nhiều thập kỷ tới", TS Hồ Thiệu Hùng nói.
Một người tự nhận mình chỉ là giáo sư trên truyền hình là GS Cù Trọng Xoay (tức Bí thư Đoàn của Tập đoàn FPT Đinh Tiến Dũng), khi trao đổi với người viết về vấn đề giáo dục thế hệ trẻ, đã bổ sung: "Một bế tắc lớn trong giáo dục hiện nay là thiếu tấm gương để giới trẻ noi theo, như hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ của những năm 50-70 của thế kỷ trước."
GS Xoay đưa ra một nhận định khá độc đáo rằng lỗi không chỉ ở các nhà hoạch định chính sách giáo dục, mà cả giới truyền thông. Theo ông, do cách chiều theo thị hiếu của công chúng, truyền thông thường "đẩy" quá hình ảnh những tấm gương thành công kiểu "mỳ ăn liền" của các ngôi sao giải trí dễ dãi, chẳng hạn, hay cuộc đời của những người thành đạt thực sự lại bị photoshop quá nhiều.


Triết lý giáo dục tại Trường THPT tư thục Thái Bình (Q.Tân Bình, TP.HCM): Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để hoàn thiện mình - Ảnh: Tuổi Trẻ
"Điều đó khiến cho giới trẻ nhiều khi không hình dung được để thành công người ta phải lao động miệt mài và nghiêm túc như thế nào. Cũng như phải trả giá rất lớn cho cực kỳ nhiều những sai lầm, nhiều khi cực kỳ ngớ ngẩn", GS Xoay nhận xét.
Được khích lệ bởi sự thẳng thắn của GS Xoay, người viết, vốn xuất phát trong một gia đình có nhiều người theo nghiệp giáo dục, và bản thân cũng từng có những năm tháng "xoa đầu sinh viên", cũng mạnh dạn xin phép quý độc giả cho lạm bàn mấy câu.
Theo ngu ý của người viết, cái triết lý giáo dục đầy đủ nhất hiện giờ chính Bác Hồ đã đưa ra nửa thế kỷ trước. Đó là 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng. Con người mà nền giáo dục của Việt Nam hiện nay đang muốn xây dựng chính là con người hội đủ 5 tiêu chí đó.
Thứ nhất, là "yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào". Phàm cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho đồng bào, cho sự phát triển đi lên của xã hội dứt khoát phải làm. Phàm cái gì có hại dứt khoát không làm. Ý thức công dân và lòng nhân ái cũng nằm ở chỗ đó.
Thứ hai là học tập tốt, lao động tốt. Học tập tốt mới có kiến thức thật, bằng cấp thật, để đóng góp cho xã hội, chứ không phải đi mua bằng giả như không ít sinh viên, hay thậm chí học "giả" hiện nay. Có lao động tốt, chăm chỉ mới khỏi ăn bám người khác, hay "ngồi mát ăn bát vàng".
Thứ ba là "đoàn kết tốt, kỷ luật tốt".
Lịch sử đã chứng minh rằng mỗi khi dân tộc chúng ta kết thành một khối, trên dưới đồng lòng, không kẻ thù nào có thể đánh bại chúng ta, còn khi dân tộc bị chia rẽ, trên dưới bất hoà, đất nước luôn gặp hoạ xâm lăng, thậm chí bị đô hộ.
Và kỷ luật là một trong những yếu tố duy trì đoàn kết. Tất nhiên, phải trên cơ sở một nền tảng pháp lý rõ ràng, minh bạch và công bằng.
Thứ tư là "giữ gìn vệ sinh thật tốt". Ngoài nghĩa đen, điều này còn có ý nghĩa về ý thức giữ cho hai bàn tay "sạch", không bị nhúng chàm.
Thứ năm là "khiêm tốn, thật thà, dũng cảm".
Có khiêm tốn mới nhìn nhận đúng mình, để khỏi ưỡn ngực, chém gió, coi mình cao hơn thiên hạ. Tấm gương khiêm tốn mà đi lên của người Nhật Bản là một minh chứng rõ ràng nhất.
Thật thà tức là trung thực, Bác nói cho vần thôi. Trung thực với bản thân, trung thực với cộng đồng, và với xã hội. Nói như Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân là học trò không ngồi nhầm lớp, khi đi làm không ngồi nhầm ghế.
Dũng cảm là dám đấu tranh với cái sai, cái tiêu cực. Một xã hội có nhiều người dũng cảm thì cái tốt mới át được cái xấu, người tốt mới không sợ kẻ xấu. Và cũng không kém phần quan trọng là dám thẳng thắn nhận trách nhiệm về những sai lầm của mình.
Đối với ngành giáo dục, bao gồm cả các nhà quản lý và hoạch định chính sách giáo dục, thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy chính là cách tốt nhất để hưởng ứng cuộc vận động "Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", do Ban Bí thư phát động từ mấy năm nay.
Còn nhớ, ông Phạm Vũ Luận, khi lần đầu tiên nhậm chức bộ trưởng giáo dục - đào tạo, đã nói rằng ông không có tham vọng tạo dấu ấn trong nhiệm kỳ của mình. Nhiều người đã không hiểu hàm ý của ông: Ông muốn lặng lẽ tiếp tục thực hiện những đợt phát động "Nói Không" do người tiền nhiệm, đồng thời vẫn là thủ trưởng của ông khởi xướng.
Tuy nhiên, theo thiển nghĩ của người viết, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận hoàn toàn có thể tự tin tạo dấu ấn của mình, bằng việc khởi xướng phong trào "Nói Có" với "5 điều Bác Hồ dạy". "Nói Có" (Say Yes to...) chính là sự bổ sung hoàn hảo cho "Nói Không" (Say No to...), cũng tương tự như "xây" và "chống".
Xã hội Việt Nam trong con mắt mọi người, nhất là giới trẻ, vì thế, chắc chắn trông sẽ tươi sáng hơn, và vận động theo chiều hướng tích cực hơn.
Thế mà sắp khai giảng năm học mới rồi nhỉ? Năm nay cũng là năm kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ gửi 5 điều căn dặn đó.


Tụ tập trái pháp luật xử theo quy định của pháp luật

  Dẫn thông tin từ Công an Hà Nội về một số người tụ tập bị tạm giữ được tại ngoại chiều 25/8, người người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định các hành vi tụ tập trái pháp luật, gây rối trật tự công cộng được xử lý theo quy định của pháp luật.  

Nói rõ Điều 9 về quyền dân sự và chính trị

Tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao chiều 25/8, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga đã trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước phát biểu của người phát ngôn Đại sứ quán Hoa Kỳ bày tỏ lo ngại về việc Việt Nam tạm giữ một số người vào ngày Chủ nhật 21/8 vừa qua.

Khẳng định đây là "phát biểu sai trái, không phù hợp", bà Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh ở Việt Nam, các quyền tự do cơ bản của công dân được quy định rõ trong hiến pháp và pháp luật và được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Cũng như tất cả các nhà nước pháp quyền khác trên thế giới, việc thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật, điều này đã được quy định rõ tại Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.

"Các cơ quan chức năng của Việt Nam đã xử lý những người có hành vi tụ tập trái pháp luật, gây rối trật tự công cộng. Việc làm này là theo đúng các quy định của pháp luật để bảo đảm trật tự an toàn xã hội", người phát ngôn Bộ Ngoại giao nói.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga. Ảnh: LAD

Trả lời câu hỏi về tình trạng 3 người bị tạm giữ vào ngày Chủ nhật 21/08 vừa qua, bà Nga cho hay thông tin từ Công an Hà Nội rằng, khoảng trên 50 người đã tụ tập "trái pháp luật, gây rối trật tự công cộng" ở khu vực Tượng đài Lý Thái Tổ nơi đang diễn ra các hoạt động biểu diễn nghệ thuật chào mừng 66 năm Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9.

Bà cho hay lực lượng làm nhiệm vụ đã kiên trì vận động, giải thích yêu cầu mọi người thực hiện đúng các quy định của pháp luật để bảo đảm trật tự công cộng theo tinh thần Nghị định 38/2005-NĐCP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng và nội dung thông báo của UBND Hà Nội. Tuy nhiên những người nói trên đã không chấp hành và có lời lẽ "lăng mạ, gây mất trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ".

Để thiết lập trật tự an ninh tại khu vực bảo vệ, lực lượng làm nhiệm vụ đã áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ trật tự công cộng theo quy định tại Điều 9 Nghị định 38/2005-NĐCP, đưa những người này về trụ sở tiếp dân của thành phố. Tuy nhiên, tại đây, những người trên tiếp tục có hành vi "hò hét, gây rối trật tự an ninh", buộc lực lượng làm nhiệm vụ phải tiếp tục đưa về đồn Công an Mỹ Đình, Từ Liêm để phân loại xử lý.

Cũng theo bà Nga, cơ quan chức năng đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với một số trường hợp, và đã cho một số trường hợp về ngay trong ngày 21/8. Đối với 3 đối tượng có hành vi quá khích, lăng mạ, gây rối trật tự công cộng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm tạm giữ hình sự để tiếp tục điều tra làm rõ.

Trong thời gian xử lý những người có hành vi vi phạm những quy định của pháp luật tại đồn công an Mỹ Đình, Công an huyện Từ Liêm đã tạm giữ 3 đối tượng đã tới trụ sở công an, có hành vi gây rối an ninh trật tự, lăng mạ, chống người thi hành công vụ.

Theo thông tin mới nhất từ Giám đốc Công an Hà Nội, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết, cuối buổi chiều 25/8, các đối tượng trên tạm thời được tại ngoại để xem xét xử lý sau.

Trước câu hỏi của hãng thông tấn AFP về sự việc này, bà Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh lại chủ trương của thành phố Hà Nội và các cơ quan chức năng là kiên trì vận động, giải thích để người dân hiểu và tuân thủ các quy định của pháp luật. "Việt Nam là một nhà nước pháp quyền, các hành vi tụ tập trái pháp luật, gây rối trật tự công cộng phải được xử lý theo đúng quy định của pháp luật", bà Nga nói.

Đề nghị TQ sớm thả tàu cá và ngư dân VN

Cũng tại cuộc họp báo, bà Nga cho hay Việt Nam đã đề nghị các cơ quan chức năng Trung Quốc xem xét sớm trả tự do cho ngư dân và tàu cá Việt Nam.

Người phát ngôn dẫn thông tin từ Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Sở Ngoại vụ UBND tỉnh Quảng Bình cho hay, hôm 8/8, tàu cá Quảng Bình mang số hiệu QB1825TS cùng 5 ngư dân đã bị cơ quan chức năng của Trung Quốc bắt giữ tại khu vực có toạ độ 17độ40 Bắc, 109độ20 Đông thuộc vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, cách đảo Hải Nam 35 hải lý và cách Đà Nẵng 109 hải lý.

Ngay sau khi nhận được thông tin, Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao đã liên hệ với Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đề nghị các cơ quan chức năng Trung Quốc xem xét sớm trả tự do cho ngư dân và tàu cá của Việt Nam trên tinh thần hữu nghị và nhân đạo, phù hợp với quan hệ hai nước.

Lào dừng xây đập thủy điện Xayaburi

Trước thông tin Lào sẽ thuê Thuỵ Sĩ nghiên cứu đánh giá tác động môi trường đối với đập thuỷ điện Xayaburi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết Việt Nam hoan nghênh quyết định của Chính phủ Lào dừng dự án xây dựng đập thuỷ điện Xayaburi.

Tại cuộc gặp bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN 18 tại Jakarta, Indonesia, thủ tướng hai nước đã thống nhất chỉ đạo các cơ quan liên quan của hai bên phối hợp nghiên cứu chung, thúc đẩy nghiên cứu trong khuôn khổ Uỷ hội sông Mekong (MRC) về tác động của các công trình thuỷ điện đối với dòng sông Mekong để có đủ cơ sở khoa học vững chắc làm căn cứ cho những quyết định tiếp theo.

Hai bên sẽ cùng tích cực phối hợp để triển khai thoả thuận cấp cao này.

Nâng cao sức hấp dẫn của Đảng
 Các nhà khoa học 'hiến kế" tại hội thảo Văn kiện ĐH XI của Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Tạp chí Cộng sản, Viện Khoa học xã hội VN tổ chức sáng 23/8.

GS.TS Dương Phú Hiệp, nguyên Phó Viện trưởng Viện Triết học, nguyên Tổng thư ký Hội đồng lý luận TƯ cho rằng trong các văn kiện, bên cạnh nhấn mạnh nhiệm vụ nâng cao sức chiến đấu, cũng nên chú ý đến việc "nâng cao sức hấp dẫn của Đảng".

"Việc này không nên chỉ là nêu khẩu hiệu, mà còn phải nghiêm túc suy nghĩ cách làm", ông Hiệp nói.

Các nhà khoa học 'hiến kế" tại hội thảo Văn kiện ĐH XI của Đảng.

Còn khoảng cách văn kiện - cuộc sống

PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu, Học viện Chính trị quốc gia HCM, nhận định "văn kiện thì nhiều, nhưng cơ chế thực hiện văn kiện thì chưa có". GS.TS Đỗ Thế Tùng, Học viện Chính trị Quốc gia HCM, còn chỉ rõ: "Đọc văn kiện, thấy nói nhiều điều cần làm mà chưa thấy nói những điều đó có khả năng làm được không và cách làm như thế nào".

Ông Tùng lấy ví dụ về tình hình "đáng buồn" của các hợp tác xã hiện nay, "các văn kiện đều xác định vai trò của kinh tế tập thể nhưng không nói một câu nào về các hợp tác xã, về phương hướng phát triển thành phần kinh tế này về bề rộng bề sâu như thế nào".

"Cứ để nông dân tự bơi với kinh tế hộ thì làm sao đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp? Nước công nghiệp thì nông nghiệp cũng phải phát triển theo hướng công nghiệp hóa chứ", ông Tùng băn khoăn.

Nguyên TBT báo điện tử Đảng Cộng sản Đào Duy Quát bổ sung thêm tình trạng "nghị quyết nhiều nhưng vướng mắc nhất vẫn là khâu thực hiện trong thực tiễn: "Vấn đề quan trọng mà công tác lý luận phải tìm được lời giải là làm cách nào đưa hiệu quả của đường lối kinh tế và đổi mới chính trị vào thực tiễn, biến thành hiện thực".

Cùng với khoảng cách giữa khẩu hiệu và cách làm, các nhà khoa học cũng chỉ ra một khoảng cách khác là giữa lý luận và thực tiễn. Nêu dẫn chứng, GS.TS Nguyễn Hùng Hậu nói: "Lý luận của Đảng luôn là xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, vậy mà xuống cơ sở, dân rất ngại gặp chính quyền. Ta cũng nhấn mạnh dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, nhưng ở cơ sở, dân nói chỉ thấy làm chứ chưa thấy ba điều còn lại".

Chính vì vậy mà GS.TS Dương Phú Hiệp kiến nghị bên cạnh nhấn mạnh nâng cao sức chiến đấu, cần mạnh dạn đề cập đến nhiệm vụ nâng cao sức sáng tạo của Đảng. "Giờ là lúc cần sức sáng tạo hơn lúc nào hết, một đảng lãnh đạo mà cứ mãi giáo điều, rập khuôn thì đảng đó yếu", ông Hiệp nhận định.

Tham nhũng nằm trong cơ chế

Nhà báo lão thành Hữu Thọ thì bày tỏ băn khoăn về công tác phòng chống tham nhũng. Nhiệm vụ này, theo ông, được nêu trong tất cả các văn kiện của Đảng, từ Cương lĩnh, chiến lược đến báo cáo chính trị, cho thấy Đảng ta nhận thức tầm quan trọng cả dài, trung và ngắn hạn của công cuộc này.

Nhưng tại sao tham nhũng chưa giảm, ông Hữu Thọ đưa ra lời giải đáp: "Quốc tế đã kết luận nếu tham nhũng không đẩy lùi được thì có nghĩa là tham nhũng nằm ngay trong cơ chế, cơ chế đó đang nuôi dưỡng chứ không đẩy lùi tham nhũng".

"Văn kiện ĐH VI vẫn còn nói chống đặc quyền đặc lợi, nhưng từ các ĐH sau không còn thấy nhắc đến nữa, trong khi đặc quyền đặc lợi hiện nay đang trở nên nghiêm trọng, nhất là liên quan đến đất đai, xe cộ...", nhà báo Hữu Thọ nói.

Văn kiện ĐH Đảng VIII đã chỉ ra 9 trọng điểm phòng chống tham nhũng gồm đất đai, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, hải quan, quản lý tài sản công và quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. Ông Hữu Thọ nói, 9 trọng điểm này đến nay vẫn chưa giảm.

Đến ĐH XI lại đưa thêm cả việc tiếp nhận bổ nhiệm cán bộ vào những việc cần nâng cao tính công khai minh bạch, ông Hữu Thọ nói.

Trở lại câu chuyện khẩu hiệu và cách làm, nhà báo lão thành nhận định văn kiện của Đảng đã nêu đầy đủ ba nhóm giải pháp gồm giáo dục tư tưởng, giải pháp chính trị và giải pháp kinh tế, vấn đề là tổ chức thực hiện thế nào.

Một trong những cách làm được ông nhấn mạnh chính là "Đảng và Nhà nước nên ủng hộ các tờ báo đấu tranh chống tiêu cực, vì bọn tham nhũng sợ nhất là đấu tranh công khai".

Góp thêm ý kiến về phòng chống tham nhũng, GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn nhận định "còn thiếu dân chủ nên tham nhũng mới tràn lan".

Đánh giá cao việc đưa dân chủ vào vị trí xứng đáng trong mục tiêu phát triển của đất nước, song các nhà khoa học vẫn muốn các văn kiện của Đảng đề cập cụ thể và sâu sắc hơn về vấn đề này. GS.TS Lưu Văn Sùng, Học viện Chính trị Quốc gia HCM, còn đề nghị đưa thêm tự do vào thành mục tiêu.

Quan điểm này được GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn chia sẻ: "Dân chủ là động lực, có dân chủ sẽ có tự do. Chỉ cần dân chủ, tự do, công bằng thì sẽ có dân giàu, nước mạnh, từ đó sẽ văn minh".

Thường trực BBT: Dân chủ tranh luận, mở đường cho cái mới

Nếu không có dân chủ trong thảo luận, tranh luận thì khoa học không thể phát triển - Thường trực Ban Bí thư nói trước Hội đồng Lý luận TƯ.

Hội nghị tổng kết hoạt động của Hội đồng Lý luận TƯ nhiệm kỳ 2006 - 2010 diễn ra ngày 27/8 tại Hà Nội.

Tổng kết 30 năm đổi mới

Phát biểu tại đây, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh đánh giá Hội đồng Lý luận TƯ nhiệm kỳ qua đã tập trung nghiên cứu, phát triển, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, làm rõ thêm một số vấn đề về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo...

Ông Lê Hồng Anh: Dân chủ trong tranh luận có ý nghĩa quan trọng với việc khắc phục những hiện tượng bảo thủ, trì trệ, giáo điều trong nghiên cứu khoa học, mở đường cho cái mới. Ảnh: CPV

Điểm nổi bật là Hội đồng đã chú trọng hơn việc gắn kết lý luận với những vấn đề thiết thực, nóng bỏng của đời sống xã hội, nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn; đã nhận thức và giải quyết sâu sắc hơn mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn...

Hội đồng đã làm tốt hơn nhiệm vụ tập hợp, quy tụ trí tuệ của các chuyên gia, cán bộ nghiên cứu lý luận trong cả nước, qua đó tổng hợp và chuyển giao khá kịp thời những luận cứ khoa học mới và ý kiến đóng góp bổ ích phục vụ trực tiếp cho quá trình nghiên cứu, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; soạn thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng...

Về phương hướng hoạt động của Hội đồng Lý luận TƯ nhiệm kỳ 2011 - 2015, ông Lê Hồng Anh chỉ rõ, Hội đồng cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những vấn đề lý luận - thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH trong những thập kỷ tới; cung cấp được hệ thống luận cứ khoa học mới phục vụ thiết thực cho mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN, như văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu. Cần phân tích sâu sắc và làm sáng tỏ thêm vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; những vấn đề nảy sinh trong quá trình đổi mới kinh tế.

Tổ chức nghiên cứu lý luận - tổng kết thực tiễn thật sự sâu sắc và chủ động hơn nữa để góp phần bảo đảm thực hiện tốt 3 khâu đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng cơ sở hạ tầng. Hội đồng cần làm tốt vai trò của mình trong việc tổng kết 30 năm đổi mới.

Cung cấp luận cứ khoa học mới để sửa Hiến pháp

Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh, Hội đồng cần tổ chức thực hiện tốt nghiên cứu lý luận - thực tiễn về xây dựng Đảng cầm quyền trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; đặc biệt là làm rõ một số vấn đề cấp thiết nhất đang đặt ra phải tập trung giải quyết nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Một nhiệm vụ quan trọng nữa của Hội đồng Lý luận TƯ nhiệm kỳ mới là tổ chức thực hiện tốt nghiên cứu lý luận - thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cung cấp các luận cứ khoa học mới thật sự thiết thực và kịp thời để phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.

Hội đồng cũng cần tổ chức thực hiện tốt nghiên cứu lý luận - thực tiễn về định hướng, quan điểm, giải pháp phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về định hướng, quan điểm, giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội hiện nay, về định hướng, quan điểm, giải pháp để giải quyết những vấn đề về quốc phòng - an ninh - đối ngoại trong tình hình mới.
Tổ chức tốt hơn, có hiệu quả thiết thực hơn việc trao đổi các vấn đề lý luận - thực tiễn với một số đảng cộng sản và đảng cầm quyền.

Ông Lê Hồng Anh nhấn mạnh: Cần quan tâm hơn nữa việc tổng hợp, quy tụ chất xám của các chuyên gia và các nhà khoa học trong cả nước, bảo đảm góp phần cung cấp kịp thời hệ thống luận cứ khoa học mới thật sự có giá trị để phục vụ trực tiếp cho quá trình soạn thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng và một số nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Khắc phục trì trệ, giáo điều

Thường trực Ban Bí thư cũng chỉ rõ: Đời sống xã hội đang đặt ra trước mắt chúng ta nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, tổng kết. Nghiên cứu khoa học về lý luận chính trị phải bám sát hoạt động thực tiễn xã hội...

"Dân chủ trong thảo luận, tranh luận khoa học sẽ làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Nếu không có dân chủ trong thảo luận, tranh luận thì khoa học không thể phát triển. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với việc khắc phục những hiện tượng bảo thủ, trì trệ, giáo điều trong nghiên cứu khoa học, đồng thời, mở đường cho cái mới, cái tiến bộ ngày càng phát triển", ông Lê Hồng Anh nói.

25 năm đổi mới đã cho chúng ta thấy một vấn đề rất quan trọng là thông qua dân chủ bàn bạc, hội thảo, tọa đàm, khảo sát thực tế, nhiều vấn đề mới về lý luận đã được phát hiện và tổng kết, trong đó, có tổng kết 20 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam do Hội đồng Lý luận TƯ thực hiện.

Thường trực Ban Bí thư bày tỏ tin tưởng, với tổ chức mới, lực lượng mới, Hội đồng sẽ làm được nhiều việc, thực hiện tốt chức năng tư vấn, tham mưu, giúp cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xử lý những vấn đề lý luận - thực tiễn đang đặt ra đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Phân công công tác của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng
Ngày 25/8, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định phân công công tác của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng.
Theo đó, Thủ tướng  chịu trách nhiệm lãnh đạo, quản lý toàn diện mọi hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Trực tiếp chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác  như chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả nước và các vùng, ứng phó với biến đổi khí hậu, tài chính, tín dụng, tiền tệ quốc gia, bảo đảm quốc phòng và an ninh.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (phải) bên hành lang Quốc hội. Ảnh: Lê Anh Dũng
Thủ tướng cũng sẽ phụ trách công tác đối ngoại, công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông - Hải đảo cũng như xây dựng thể chế; tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; địa giới hành chính nhà nước.
Thủ tướng cũng sẽ trực tiếp làm nhiệm vụ Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Chủ tịch Hội đồng quốc gia giáo dục và Chủ tịch một số Hội đồng, Ủy ban quốc gia và Trưởng một số Ban Chỉ đạo quan trọng khác.
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được giao giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ chuyên trách chỉ đạo phòng, chống tham nhũng và làm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Ông Phúc cũng được giao giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác thuộc khối nội chính. Đồng thời, làm trưởng Ban Chỉ đạo Tây Bắc; Chủ tịch Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào trong Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào; Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông quốc gia; Chủ tịch các Hội đồng, các Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các lĩnh vực có liên quan.
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải sẽ giúp Thủ tướng trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác trong khối kinh tế ngành và phát triển sản xuất bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại - xuất nhập khẩu, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
Ông Hải cũng sẽ có trách nhiệm chỉ đạo bảo đảm năng lượng và tiết kiệm năng lượng, các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia, các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất cũng như công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.

Ông Hải đồng thời kiêm giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo Tổ chức điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản; Chủ tịch các Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các lĩnh vực có liên quan.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân được giao giúp Thủ tướng trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác thuộc khối khoa giáo - văn xã. Đồng thời, ông Nhân sẽ giữ các nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin, Chủ tịch Hội đồng Phát triển bền vững quốc gia, Chủ tịch các Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các lĩnh vực có liên quan.

Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh sẽ giúp Thủ tướng theo dõi, chỉ đạo các khối kinh tế tổng hợp, bao gồm: kế hoạch; tài chính, giá cả; tiền tệ ngân hàng; thị trường chứng khoán, các nguồn đầu tư tài chính; dự báo và chính sách điều hành kinh tế vĩ mô.
Ông Ninh đồng thời còn kiêm giữ chức Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; Trưởng Ban Chỉ đạo nghiên cứu và thực hiện cải cách chính sách tiền lương nhà nước; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Trưởng Ban Chỉ đạo tái cơ cấu Tập đoàn Vinashin; Chủ tịch các Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các lĩnh vực có liên quan.

Những kế hỏa công ‘khiếp đảm’ của quân Đại Việt

Thế hệ hậu sinh không thể tưởng tượng nổi những chiến thuật hỏa công sáng tạo mà cha ông đã sử dụng trong các cuộc chiến với kẻ thù từ nhiều thế kỷ trước.

Trong nghệ thuật quân sự thời xưa, phép hỏa công (dùng lửa tiêu diệt quân địch) là một chiến thuật kinh điển, cho phép sử dụng tối thiểu sức người, hạn chế thương vong nhưng vẫn đạt uy lực hủy diệt tối đa đối với quân địch khi tận dụng sức mạnh càn quét ghê hồn của ngọn lửa.

Tuy vậy, việc vận dụng thành công chiến thuật này không hề đơn giản. Đó là sự quy tụ của nhiều yếu tố như thời tiết (hướng gió, độ ẩm), trình độ chế tạo, sử dụng chất cháy và quan trọng hơn cả là cách bày mưu bố trận của nhà quân sự. Các sách binh pháp của người Việt từ nhiều thế kỷ trước cho thấy, cha ông ta đã sử những chiến thuật hỏa công rất sáng tạo trong cuộc chiến với quân địch.

Lửa “bay” xuống từ trên trời 

Chiến thuật hỏa công thông thường phụ thuộc rất nhiều vào hướng gió. Nếu trại địch nằm ngược hướng gió với quân ta thì chiến thuật này sẽ hoàn toàn vô dụng. Ngoài ra, hỏa công cũng khó có thể đạt mục đích khi địch bố phòng kỹ lưỡng, cảnh giới nghiêm ngặt.

Tuy vậy, có một lối đánh hỏa công có thể hóa giải cả hai trở ngại trên, đó là đốt giặc bằng diều lửa.
Chiến thuật hỏa công dựa vào uy lực của ngọn lửa.

Những chiếc diều dùng để đánh hỏa công cũng được làm bằng vải, giấy và nan tre như diều thường. Khác biệt lớn nhất là chúng sẽ được ngâm tẩm các loại hóa chất cháy. Lòng diều thường được làm bằng giấy mỏng tẩm dầu trám. Da diều làm bằng vải tẩm lưu hoàng, diêm tiêu. Cũng những hóa chất ấy được tẩm vào cỏ bấc đèn làm đuôi diều.

Dây diều là dây gai dài từ 100 đến 300 bước, được buộc vào lưng diều. Chiếc diều lửa sẽ có thêm một ngòi thuốc làm bằng dây giấy buộc vào sau đuôi diều.

Diều được thả từ vị trí thích hợp thùy hướng gió, khi bay đến gần trại địch đốt vào đầu dây ngòi thuốc, lửa sẽ bén lên cháy diều, đồng thời cháy đứt dây khiến diều rơi xuống  trại địch. Nếu dây diều chưa đứt thì lấy dao cắt dây.

Chiến thuật “lửa trời” này đòi hỏi người sự điêu luyện của cả người chế tạo và người thả diều. Một khi địch đã bị tấn công bằng diều lửa thì hầu như không có cách gì để chống đỡ.

Mặt đất trở thành “biển lửa”

Một cách đánh lấy ít địch nhiều khác là dùng trận địa hỏa thương (ống tre nhồi thuốc nổ, có thể nhét thêm mũi tên, mảnh kim loại sắc) chôn trong lòng đất.

Để tạo trận địa này, cần đến 100 - 200 thân cây tre núi to để làm hỏa thương, mỗi thân dài hơn 5 thước, miệng rộng 2 tấc. Đoạn đầu thân tre đục thủng lỗ to, đoạn dưới nhồi đầy thuốc phun và thuốc súng.

Sau đó dùng ống tre nhỏ dài 3 tấc, cắm vào đầu hỏa thương làm miệng. Trên miệng lấy giấy cắt ra thành mảnh nhỏ rồi lấy hồ dán kín miệng ấy. Bên đầu hỏa thương lại dùi một lỗ nhỏ để làm chỗ dẫn lửa.

Khi được chuẩn bị xong xuôi, các ống hỏa thương sẽ được chôn xuống những rãnh hào hình chũ bát, mỗi ống cách nhau hơn 3 thước. Miệng hỏa thương để lòi ra 1 tấc, phần còn lại thì chôn sâu dưới đất.

Tại chỗ giáp rãnh chữ bát đào một hốc sâu 4, 5 thước để đặt đá lửa và dao sắt, để làm máy đánh lửa. Sau đó đặt ngòi dẫn lửa từ máy đánh lửa đến lỗ ngòi của các hỏa thương. Cuối cùng lại lấy cát, cỏ phủ lên ngụy trang trận địa, không để địch biết.

Khi lâm trận, quân ta sẽ khiêu chiến rồi giả thua và cứ nhắm vào trận địa hỏa thương mà chạy. Khi giặc chạy xéo vào máy đánh lửa thì dao và đá cọ xát nhau mà tóe lửa, lửa cháy vào ngòi thông đến hàng trăm ống hỏa thương, các chất cháy bùng nổ trên một diện tích rộng tạo nên một biển lửa khủng khiếp thiêu cháy quân địch.

Trận địa hỏa tiễn chứa thuốc độc

Khiếp đảm không kém trận địa hỏa thương ngầm là trận địa hỏa tiễn chứa thuốc độc. Để tạo trận địa này, quân lính sẽ đào hai rãnh ở hai bên đường, mỗi rãnh sâu 4 thước, rộng 5 tấc, dài từ 50 - 200 bước. Giữa đường đào thêm một rãnh ngang để thông hai trên lại với nhau.

Tùy theo quy mô trận địa mà thợ sắt sẽ đúc từ 100 đến 1.000 cái cái bầu sắt, mỗi bầu có đường kính đáy 2 thước, đường kính miệng 2 tấc 3 phân. Mỗi bầu sẽ được nạp đầy thuốc độc

Sau đó, cắm ống sắt vào trong bầu từ miệng đến đáy. Trong lòng ống sắt nạp đầy thuốc súng. Phía trên thuốc súng lại lấy bánh thuốc độc nạp vào.

Từ 10 - 100 mũi tên sắt có hình dáng như ngọn mác được buộc làm một bó nạp lên trên thuốc súng. Trên bó mũi tên lại nhét thêm thuốc súng. Trên thuốc súng lại nhét thuốc độc và bó mũi tên... Nạp như thế 3, 4 lần đến khi đầy ống sắt thì thôi.

Khi đã chuẩn bị xong, các bầu sắt được để vào trong hai rãnh ven đường, miệng bầu hơi nghiêng trở lên, các ống đều cách nhau chừng một bước. Sau đó đặt máy đánh lửa ở rãnh ngang, trên có ngòi thuốc chạy vào các miệng cái ống. Cuối cùng ngụy trang các rảnh bằng phên tre phủ cát, cỏ.

Tương tự như trận địa hỏa thương ngầm, quân ta sẽ khiêu chiến và giả thua để dụ địch. Địch xéo vào máy đánh lửa ở rãnh ngang sẽ làm ngòi lửa cháy đến các ống sắt. Thuốc súng nổ tung với ngọn lửa ghê hồn cùng hàng nghìn mũi tên độc hủy diệt hoàn toàn quân địch.

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP: “Vị Nguyên soái vĩ đại của thế kỷ XX”

Gần 200 bức ảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trưng bày tại triển lãm ảnh khai mạc chiều  22/8 tại Hà Nội, hoạt động kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng (25/8/1911- 25/8/2011), 66 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.

Những bức ảnh trên được chọn lọc từ gần 300 bức ảnh trong cuốn sách ảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Cục Thông tin đối ngoại phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông sắp ra mắt độc giả.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết lời tựa cho cuốn sách ảnh, nhấn mạnh: "Với gần 300 bức ảnh chọn lọc, cuốn sách ảnh Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã phác họa khá đầy đủ và chân thực bức chân dung sống động về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một vị tướng tài ba, một nhà cách mạng nổi tiếng, một người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người con ưu tú của dân tộc, được nhân dân cả nước yêu mến và bạn bè quốc tế ngưỡng mộ."

Giáo sư Vũ Khiêu viết trong lời giới thiệu cuốn sách cũng ca ngợi vị Đại tướng huyền thoại rằng : "Trong lịch sử vẻ vang của ngàn năm Thăng Long-Hà Nội, thì trăm năm cuối cùng trong ngàn năm ấy là trăm năm quan trọng nhất, khó khăn nhất nhưng lại rực rỡ nhất, thành công nhất. Trong một trăm năm này, nổi bật lên hình ảnh chói lọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh và sau đó là hình ảnh rực rỡ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với các nhà lãnh đạo lỗi lạc của dân tộc. Trong các vị nói trên, thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người duy nhất sống trọn 100 năm, 1/10 lịch sử của Thăng Long ngàn năm tuổi. Tôi nghĩ có lẽ đó là vinh dự mà lịch sử dành riêng cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp.”
 

Giáo sư Vũ Khiêu nhận xét phẩm chất tinh thần của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ đọng lại ở trong lòng mọi người mà còn thể hiện thành hình ảnh sống động của Đại tướng trong mỗi bức tranh, mỗi bức ảnh được treo ở nhà, hoặc lưu giữ trong cuốn sưu tập ảnh của gia đình.

Tổng thống Thuỵ Sĩ thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2008. Ảnh: Vietnamnet


Triển lãm do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, sẽ kéo dài đến 3/9/2011.

“Vị Nguyên soái vĩ đại của thế kỷ XX”

Sáng 21/8, gia đình và văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tổ chức lễ mừng thọ nhân dịp kỷ niệm Đại tướng tròn 100 tuổi.

Buổi lễ diễn ra ấm cúng, thân mật, với sự tham dự của nhiều giáo sư, chuyên gia trong lĩnh vực sử học, giáo dục, những người bạn lâu năm của Đại tướng, những tướng lĩnh, đồng đội thân thiết và nhiều văn nghệ sĩ.

Những cuốn sách, những bài thơ, bức ảnh, tượng đã được trân trọng trao tặng cho gia đình Đại tướng. Trong đó, đáng chú ý có cuốn sách Commanders của Hoàng gia Anh, tuyển chọn và giới thiệu những vị tướng trong lịch sử quân sự thế giới từ 1500 năm trước Công nguyên đãc trang trọng dành riêng 4 trang để giới thiệu về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay bức thư của GS.TS Khoa học Chính trị Burkhanov của Cộng hoà Kazakhastan đã tôn vinh Đại tướng là "Vị Nguyên soái vĩ đại của thế kỷ XX”.

Đây chỉ là một phần trong những tình cảm yêu quý mà người dân cả nước và bạn bè thế giới đã dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bởi như GS Phan Ngọc trong buổi lễ đã nói: “Nói thế nào cũng không hết, viết thế nào cũng không đủ” về Đại tướng trăm tuổi của Việt Nam và thế giới


100 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Võ công nết đất, nhân văn tính trời
Có lẽ khó để tim ra một người thứ hai trên thế giới, vị lão tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp đang là biểu tượng cho bản lĩnh, khí phách, trí tuệ Việt Nam, niềm tin của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay.
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là"... gặp nhau trong vị lão tướng huyền thoại ấy. Trong "cõi người" mông lung, khi mà "thất thập" đã là "cổ lai hy", mấy ai được hưởng tuổi trời trọn vẹn. Thế mà vị lão tướng huyền thoại của ta đang  ung dung vào tuổi một trăm trọn vẹn để chúng ta hôm nay sung sướng được chúc mừng ngày sinh của ông vào 25.8.2011 này. Con người ấy đã là một chứng nhân hiếm hoi từ buổi bình minh của thế kỷ XX kéo dài sang những thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ hai với thế kỷ XXI đầy những biến động dữ dộị trong lịch sử loài người. Là chứng nhân của lịch sử, nhà giáo dạy lịch sử ấy cũng chính là người đã góp phần viết nên lịch sử của Việt Nam và của thế giới.
Góp phần viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc ta thì rõ rồi. Nhưng góp vào những trang sử của thế giới? Sao không!
Năm ngoái, mừng ngày sinh Đại tướng tại nhà riêng, Hội sử học đã mang đến tặng một cuốn sách vừa xuất bản ở Luân Đôn, tôn vinh 59 vị tướng lừng danh qua mọi thời đại tự cổ chí kim mà người viết này đã có dịp nói đến, Võ Nguyên Giáp là vị danh tướng duy nhất còn có dịp nhận để tự đọc được tên tuổi và sự nghiệp hiển hách của mình trong cuốn sách tuyệt vời đó. Có lẽ khó để tim ra một người thứ hai trên thế giới, như anh Văn kính yêu của chúng ta, vị lão tướng huyền thoại đang là biểu tượng cho bản lĩnh, khí phách, trí tuệ Việt Nam, niềm tin của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay.
"Trong cõi người ta" có lẽ cũng chẳng có nơi đâu trên thế giới này từ tướng lĩnh đến chiến sĩ, các cựu chiến binh cũng như những người quen biết vị tướng huyền thoại ấy lại thích được gọi cái tên thân mật của vị Tổng Tư lệnh là anh Văn.




 
 Tháng 9/2007, ông Raymond Aubrac, người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam cùng con gái Elizabeth, con nuôi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Việt Nam. Ông Aubrac cùng con gái đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2/9/2007. Ảnh triển lãm

Liệu có ngẫu nhiên không, khi nhận sứ mệnh thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Võ Nguyên Giáp lại lấy bí danh là Văn. Có thể là ngẫu nhiên khi người trí thức họ Võ lại được lịch sử trao cho một sự nghiệp cầm quân đánh giặc, một "võ công". Bi ẩn của lịch sử thì cũng khó mà phân bua, giãi bày cho rành rẽ. Nhưng có lẽ điều nói dưới đây, một hiện tượng lịch sử thanh thiên bạch nhật rõ ràng này thì lại pha chút huyền ảo : xin học đòi Nguyễn Du mà nói rằng, "Võ công nết đât, nhân Văn tính trời"!
Khi tác giả Truyện Kiều miêu tả nhân vật của mình "Văn chương nết đất, thông minh tính trời", thì ý mốn nói chuyện học hành thi đậu làm quan là do truyền thống gia đình, mồ mả ông cha, còn thông minh là do trời phú. Với vị lão tuóng của ta thì, tính nhân văn trong phong cách, lối sống và nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp "võ công" của mình thì "tính trời" ấy là một phẩm chất đặc trưng của một trong 59 danh tướng lừng danh của lịch sử thế giới. Nổi bật ở Ông là lòng thuơng dân, chắt chiu không để phung phí giọt máu của người lính trên chiến trường khi đấy không là chuyện chẳng đặng đừng để quyết chiến và quyết thắng. Đương nhiên ở đây tài thao lược gắn liền với bản lĩnh cầm quân. Đọc Tổng tập Hồi ký của Ông, điều ấy hiện lên rất rõ. Nhưng bàn chuyện "võ công", xin dành cho người am tường, trải nghiệm, ở đây chỉ xin đôi dòng mà người viết được chứng kiến và cảm nhận về "anh Văn".
Hình ảnh người dân công nhảy từ dưới chiến hào lên "xin bắt tay Đại tướng một cái" và nụ cười hiền hậu của vị Tư lệnh chiến trường Điện Biên phủ trên đường vào thị sát chiến trường sau khi dứt tiếng súng dừng lại vủi vẻ nói chuyện với con người bình thường đã góp phần làm nên chiến thắng đã là một hình ảnh Việt Nam tuyệt đẹp.
Bỗng nhiên, muốn gợi lại đây hình ảnh cũng của một vị danh tướng trong cuốn sách trên, Napoléon, mà Cao Huy Thuần có nói đến trong một bút ký rất hay anh vừa gửi tặng kịp lúc tôi nhập viện. Đây là hình ảnh Napoléon qua thơ Victor Hugo :
"Cùng với tuyết trời kia yên tĩnh
Dệt khăn tang hàng vạn tàn binh,
Trước tàn quân lưa thưa trên tuyết
Người vinh quang run rẩy nhìn trời
Nói gì đây một câu sám hối
"Phải chăng trừng phạt hỡi trời?"
Napoléon tên ông ai gọi
Nghe mơ hồ ai nói với ông :
Không.
Và Cao Huy Thuần bình: Trời không dung. Bởi vì thanh gươm của ông đâm vào tự do của các dân tộc. Bởi vì thanh gươm của ông đâm vào tự do. Nhưng thôi, xin trở lại với ngày vui của ta.
Người Tổng Tư lệnh thống lĩnh toàn quân ấy hiểu hơn ai hết, những người lính răm rắp theo lệnh của ông trên mọi chiến trường, tuyệt đại bộ phận là người nông dân.
Có lần đang nghỉ ở Cửa Lò, biết chúng tôi cũng đang có cuộc hội thảo tại đó, ông cho mời anh Việt Phương và tôi đến nói chuyện. Với tôi, ông muốn nghe vắn tắt những khảo sát xã hội học về nông thôn "Anh Tô có nói với tôi là đã nghe anh trình bày về Thái Bình, công việc ấy hiện đang tiếp tục ra sao", ông hỏi.. Trong câu chuyện, tôi vô tình nhắc lại "vấn đề dân cày" mà Qua Ninh và Vân Đình đặt ra từ những năm 40 dường như vẫn còn mang tính thời sự, đặc biệt là "nạn cướp đất làm đồn điền" của thời mồ ma thực dân, phong kiến nay lại đang có những biến thái mới, tinh vi hơn cũng có và trắng trợn hơn cũng có. Ông ra hiệu dừng lại :"Anh cũng có đọc quyển đó à. Tôi thì không còn kiếm đâu ra cả" [Sau đó tôi đã phôto mang đến đặt vào giá sách của ông] Và rồi ông trầm ngâm "Chúng ta đang làm quá ít cho nông dân, anh phải tiếp tục công trình nghiên cứu của anh". Nhân ông có nhắc đến, tôi thưa lại với ông lời uốn nắn của Bác Phạm Văn Đồng khi tôi phân tích về những xung đột dẫn đến bạo động tại Quỳnh Phụ dạo ấy chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân chứ không có chuyện kẻ địch nào ở đây "Cũng không mâu thuẫn nội bộ nhân dân nào đây cả. Phải vạch rõ đây là mâu thuẫn giữa một bên là bộ phận cầm quyền thoái hóa, biến chất tham nhũng ức hiếp dân, với một bên là người dân không thể cam chịu mãi. Có phân tích đúng như thế mới có giải pháp đúng được". Bác Tô dằn tay xuông bàn, khẳng định.
Ông nói "Có lần tôi đã đọc ý này trên một bài viết của anh, nhưng rồi sao nữa, chúng ta đã làm gì. Tôi nhận được không biết bao nhiêu thư của cựu chiến binh về đời sống của họ, về thực trạng đời sống nông thôn".
Mà đâu chỉ là mối quan tâm đến người nông dân, còn nhớ dao ông đang còn đảm nhận chức trách Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học và Giáo dục ông cho gọi tôi đến yêu cầu có một công trình nghiên cứu về chiến lươc con người. Biết sức mình không kham nổi một công việc quá lớn, tôi từ chối và giới thiệu cách làm khác, ông không vui.  "Tôi gọi anh vì biết anh đã trực tiếp tiếp thu và tích lũy được nhiều chỉ dẫn của anh Ba Duẩn trước đây về chủ đề rất quan trọng này." Tôi trả lời "Điều đó có nhưng sức tôi chưa theo kịp ý tưởng của anh Ba, chỉ mới ở dạng ghi chép thô để làm tư liệu. Muốn thành hình hài một công trình nghiên cứu còn đòi hỏi nhiều cái khác nữa mà hiện tôi chưa có được". Ông không ép và chỉ thị cho anh Huân (?) tiếp nhận những tư liệu tôi đã chuẩn bị, còn dăn nhớ trả lại cẩn thận. "Đây là vấn đề của vấn đề. Anh, cũng như những nhà khoa học xã hội khác phải dồn sức cho vấn đề lớn này, không có một chiến lược con người đúng đắn , đáp ứng được đòi hỏi của thời đại, chúng ta sẽ còn tụt hậu kéo dài, không chỉ với thê giới mà ngay cả với khu vực. Phải tập hợp cho được người giỏi mà làm, nhât quyết làm".  Nhưng thưa anh, tôi chen vào, "ở đây còn chuyện "làm được và được làm" nữa ạ." Biết ông đã hiểu tôi định nói gì, tôi mạnh dạn bộc lộ "không tháo gỡ những trói buộc, o ép về tư tưởng như hiện nay trong nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học xã hội thì khó mà người giỏi có thể làm việc được.
Ông trầm ngâm. Tôi biết ông đang nghĩ gì nhưng chưa tiện nói ra. Thì cũng giống như dạo tháng 8 năm 2009, khi bắt tay tiễn tôi ra về, ông còn khẽ khàng "Sáu Dân mất thế mà đã một năm rồi đấy nhỉ!".Tôi hiểu có câu này vì cách đó hai năm, năm 2007 tôi được ông gọi ra để hỏi tình hình sức khỏe anh Sáu Dân, khi tôi xin phép về, ông năm tay tôi nói khẽ: "Nói Sáu Dân về nhà mà nằm".
Chao ôi, anh Văn kính yêu của tôi, trái tim tôi như bóp chặt lại, nghẹn ngào xúc động trước nỗi ưu tư và tấm lòng nhân hậu của vị lão tướng đang là biểu tượng của niềm tin và sức mạnh Việt Nam vào lúc này. Trong một bài báo gần đây, tôi viết "lời ông là lời non nước".
Khi sơn hà nguy biến, sóng biển Đông đang giận dữ dập dồn, lời non nước ấy đang được đáp ứng thế nào đây?

Chủ tịch nước: Tên tuổi Tướng Giáp mãi đi vào lịch sử
  "Tên tuổi, công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam, của quân đội nhân dân Việt Nam, của những vị tướng tài ba, lừng lẫy trên thế giới" - Chủ tịch nước Trương Tấn Sang viết trong sổ bút tích triển lãm ảnh về Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chiều 22/8. 

Trong sổ bút tích, Chủ tịch nước ghi:"Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người anh cả của quân đội nhân dân Việt Nam, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Tên tuổi, công lao của đồng chí mãi mãi đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam, của quân đội nhân dân Việt Nam, của những vị tướng tài ba, lừng lẫy trên thế giới.  Tổ quốc, nhân dân và Đảng kính yêu mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng chí".


Chủ tịch nước tham quan triển lãm.

Tự nhận để chuẩn bị cho thấu đáo dễ phải mất 1-2 năm, song Ban tổ chức triển lãm ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp không muốn lỡ thời điểm lịch sử - sinh nhật ông lần thứ 100.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Trung tướng Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam (bên trái Đại tướng, đứng thứ 4 từ trái sang) quan sát Đại đội 6 Trung đoàn 233, Đoàn Cao xạ Đống Đa huấn luyện (Tết Mậu thân năm 1968). Ảnh triển lãm.

Triển lãm khai mạc cùng với ấn bản phẩm cùng tên ra mắt chiều 22/8 tại Hà Nội, nói như Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn, đó là món quà ý nghĩa gửi tặng chúc sức khỏe thượng thọ trăm năm tuổi tới Đại tướng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp duyệt phương án đánh B52 của Mỹ tập kích vào Hà Nội. Ảnh triển lãm.


Hai vị du khách nước ngoài, do lý do an ninh chuẩn bị cho buổi khai mạc với sự tham dự của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, đã kiên nhẫn chờ đợi ở cửa hơn 1 tiếng đồng hồ cho đến khi triển lãm được mở cửa chính thức đón khách tham quan. Họ cũng như nhiều du khách nước ngoài khác biết đến cái tên: Võ Nguyên Giáp với vai trò lịch sử huyền thoại trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Trên đường đi Chiến dịch Biên giới, Đại tướng thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh (năm 1950). Ảnh triển lãm.

Gọi triển lãm ảnh về Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp là "triển lãm của nhân dân" đúng về nhiều nghĩa. Bởi, nguồn ảnh tư liệu quý giá sử dụng tại đây được khai thác từ trong nhân dân, đồng bào, đồng đội của ông cùng nhiều ảnh tư liệu vô danh, ảnh khai thác từ nguồn bảo tàng, báo chí thông tấn.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ảnh triển lãm.


Nhà văn Mỹ Lady Borton, người hiệu đính tiếng Anh cho cuốn sách Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, nói rằng bà khâm phục vị Đại tướng huyền thoại bởi "ông từ nhân dân mà ra".

Đại tướng thăm Đền Hai Bà Trưng, Hát Môn, Phúc Thọ (Hà Tây cũ), một lão nông tặng đĩa bánh trôi tượng trưng cho lòng kính trọng của dân làng đối với người có công với dân, với nước. Ảnh triển lãm.

Cũng là người từng dịch, hiệu đính cho cuốn sách Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp: "Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử", nữ nhà văn người Mỹ nói rằng bà được tiếp cận nhiều nguồn tư liệu cả từ trong Việt Nam và nước ngoài, nhận thấy rằng vị Đại tướng đã luôn suy nghĩ vì nhân dân với chân lý: có dân là có tất cả.

Cựu
quân nhân tham quan triển lãm

Một người không được đào tạo chính quy trong trường quân sự nhưng đã vinh danh từ những chiến công lịch sử, mà chiến công đó không thể có được nếu không có nhân dân, những đồng bào, đồng đội của ông.

Vì ngưỡng mộ và cũng xuất phát từ niềm đam mê nghiên cứu, nữ nhà văn Mỹ đã không quản công tìm kiếm những tài liệu ở nước ngoài viết về Đại tướng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam để dịch và trao cho gia đình ông.

Đại tướng gặp Bùi Duy Ly, phóng viên ảnh chiến trường Báo Quân đội nhân dân. Ảnh triển lãm.

Rất nhiều cựu quân nhân đã đến triển lãm. Nhiều người chỉ từng gặp Đại tướng một lần trong cuộc đời, có người không có dịp, có người mang nhiều kỷ niệm sâu sắc với Đại tướng.

Tháng 9/2007, ông Raymond Aubrac, người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam cùng con gái Elizabeth, con nuôi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Việt Nam. Ông Aubrac cùng con gái đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2/9/2007. Ảnh triển lãm.


Ông Đào Đình Hy, cựu chiến sĩ phòng không có vinh dự 2 lần gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1973 và năm 1976, nói ông ấn tượng nhất đôi mắt của Đại tướng. "Đó là đôi mắt sắc sảo, mang cái nhìn toàn cục. Tôi khâm phục người chỉ huy đầy tài năng, mưu lược, tự hào là bộ đội Cụ Hồ, dưới quyền chỉ huy của Đại tướng làm cách mạng kháng chiến", ông Hy nói.

Theo ông Lê Văn Nghiêm, Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại, Bộ Thông tin - Truyền thông, có lẽ đây là một triển lãm "làm khó" Ban tổ chức bởi lẽ nguồn ảnh trong nhân dân về Đại tướng, Tổng tư lệnh quá lớn. Những bức ảnh trưng bày trong triển lãm chỉ là một phần nhỏ, vẫn còn nhiều ảnh chưa khai thác hết. Trong khi nguồn tư liệu từ báo chí, tư liệu nước ngoài, các nguồn nghiên cứu khác được cho còn khá lớn.

Con trai Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Võ Hồng Nam (trái) giới thiệu với khách quốc tế tại triển lãm.

Con trai Đại tướng, anh Võ Hồng Nam trong buổi triển lãm không giấu được xúc động vì tình cảm của đồng bào, đồng chí dành cho ba anh. "Gia đình chúng tôi muốn cảm ơn nhân dân, cảm ơn tình cảm của đồng bào dành cho ba tôi". Và điều người con trai học từ ba mình, đó là "ba tôi luôn nói Bác Hồ dặn dĩ công vi thượng, cái gì có lợi cho cái chung thì phải làm cho tốt. Cả cuộc đời ông đã đi theo điều đó".

Thế hệ trẻ với bài học lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

100 tuổi (dương lịch), 101 tuổi (âm lịch), xưa nay luôn là điều hiếm. Vị Đại tướng đã sống 1/10 lịch sử của Thăng Long ngàn năm tuổi, đi xuyên qua hai thế kỷ với cuộc đời cách mạng vẻ vang, chói lóa. Người con trai của Đại tướng nói hiện ông tỉnh táo, nhận biết được người thân cũng như khách đến thăm hỏi và biết đến cuộc triển lãm này.

Triển lãm với nguồn ảnh tư liệu phần lớn từ đồng đội, nhân dân.

200 bức ảnh chọn lọc từ 300 bức trong cuốn Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đang được trưng bày tại nhà triển lãm 45 Tràng Tiền, Hà Nội.

 Những bức ảnh quý về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cương vị Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang, Đại tướng đã trực tiếp chỉ huy các chiến dịch: Việt Bắc Thu Đông 1947, Chiến dịch Biên giới, 1950, Hòa Bình,Tây Bắc, Thượng Lào…, lần lượt đánh bại 7 tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, kết thúc cuộc kháng chiến thắng lợi, với Chiến dịch “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.”

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,ông là vị chỉ huy tài tình đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đặc biệt là cuộc tấn công chiến lược “Điện Biên Phủ trên không Hà Nội” năm 1972 của Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Tài năng quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp biểu hiện ở chỗ biết phát huy truyền thống đánh giặc của cha ông ta trong thời đại mới, lấy yếu chống mạnh, ấy ít cự nhiều, lấy binh lực nhỏ đánh thắng trận lớn và đánh chắc, thắng chắc.

Nhân dịp Đại tướng Võ Nguyên Giáp tròn 100 tuổi (25/8/1911 - 25/8/2011), chúng tôi xin giới thiệu đến độc giả những bức ảnh về sự nghiệp cách mạng cũng như cuộc sống thường ngày của Đại tướng:


Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Hồ Chủ tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở chiến dịch Điện Biên Phủ - Nguồn: TTXVN



Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ - Nguồn: TTXVN



Đại tướng gặp lại Bùi Duy Ly, phóng viên ảnh chiến trường báo Quân đội nhân dân.
Các chiến sĩ thi đua trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vui mừng công kênh Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại lễ mừng công (ngày 13-5-1954).

Chủ tịch Cuba Fidel Castro trò chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 “Đại tướng anh hùng dễ mấy ai/Đức độ, anh, uy, trí, dũng, tài/Thắng hai đế quốc, bách niên thọ/ Hoàn cầu có một, không có hai” (Bài thơ do cán bộ nhân dân làng Thượng, xã Bảo Lý, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên tặng Đại tướng năm 2010).
Sau giờ làm việc
Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng gặp nhau tại Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày đại thắng (5-1975).
 Đại tướng thăm bà Lê Thị Om, dân tộc Thái, Sơn La trong thời kỳ Kháng chiến chống Pháp đã hy sinh đứa con nhỏ của mình để bảo vệ cán bộ cách mạng ẩn náu trong hầm bí mật của gia đình (tháng 4-2004).
Triển lãm đang diễn ra tại Nhà triển lãm 45 Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp ông Bùi Duy Ly, phóng viên ảnh chiến trường báo Quân đội nhân dân


Vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đặng Bích Hà cùng 5 người con (1963). Từ trái sang phải: hàng đầu: Võ Hạnh Phúc, Võ Điện Biên, Võ Hồng Nam, Võ Hòa Bình. Hàng sau: Bà Đặng Bích Hà, Võ Hồng Anh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Năm 1948, ở tuổi 37, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm đại tướng và trở thành đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng Trung đoàn trưởng Thái Dũng và Tiểu đoàn trưởng Đông Mã đang nghiên cứu sơ đồ tác chiến Chiến dịch Biên Giới 1950
Năm 1959, Đoàn 559 được thành lập để mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn, chi viện cho miền Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho Tư lệnh Đoàn 559 phát triển mở rộng đường chiến lược Trường Sơn – Hồ Chí Minh lịch sử. Trong ảnh (từ trái sang): Đại tá Lê Hữu Đức, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Cao Văn Khánh
Ngày 10-3-1977, đoàn đại biểu quân sự Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu sang thăm Liên Xô theo lời mời của Nguyên soái Dmitriy Ustinov
Đại tướng thăm đền Hai Bà Trưng, Hát Môn, Phúc Thọ (Hà Tây cũ); một lão nông tặng đĩa bánh trôi tượng trưng cho lòng kính trọng của dân làng đối với người có công với dân, với nước
Đại tướng thường đi thăm các chiến trường xưa. Năm 2004, ông trở lại Điện Biên Phủ, thăm hầm tướng De Castries - Chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ
Đại tướng chúc sức khỏe nhạc sĩ Văn Cao, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng, đặc biệt là bài Tiến quân ca – Quốc ca của Việt Nam
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trao tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp Huân chương Sao vàng (20-8-1992)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Ủy viên Bộ Chính trị Trương Tấn Sang (2008)
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm Đại tướng
Sở thích của Đại tướng là chụp ảnh...
...và viết sách
Đối thoại trực diện giữa Tướng Giáp và nhà báo Pháp
Cuộc đối thoại trực diện, thú vị giữa tiến sĩ sử học Alain Ruscio, người có nhiều năm làm phóng viên thường trú của báo Pháp L’Humanité (Nhân đạo) tại Việt Nam với Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2011), Trung tướng Phạm Hồng Cư trích dịch, giới thiệu với bạn đọc cuốn sách "Võ Nguyên Giáp - một cuộc đời", ấn phẩm mới nhất của tiến sĩ sử học Alain Ruscio, người có nhiều năm làm phóng viên thường trú của báo Pháp L’Humanité (Nhân đạo) tại Việt Nam. Alain Ruscio đã đặt nhiều câu hỏi trực diện, thú vị cho vị tướng huyền thoại.
Ảnh trong cuốn sách "Võ Nguyên Giáp - một cuộc đời".

Alain Ruscio: Bây giờ chúng ta hãy trẻ lại vài chục năm. Hãy tưởng tượng tôi là học trò của ông, tôi đang chăm chú nghe ông giảng. Vậy ông nói gì về quá khứ của nước ông.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Ông có lý khi muốn bắt đầu câu chuyện bằng lịch sử Việt Nam xa xưa, rất lâu trước khi người Pháp đến. Ông đã biết câu nói: “Lịch sử là mẹ của tất cả sự thật”. Ở Việt Nam, từ rất sớm đã hình thành một nền văn hóa dân tộc. Ta có thể nói đến một nền văn minh xuất hiện trên châu thổ một con sông, giống như trường hợp ở Mésopotamie chẳng hạn. Đối với chúng tôi, đó là nền văn minh châu thổ sông Hồng. Tại Mésopotamie cũng như nhiều nơi khác, dù sao cũng có một chu kỳ cổ điển: Khởi đầu, phát triển, rồi suy thoái. Còn ở đây thì trái lại, nền văn minh sông Hồng không ngừng phát triển...
Tôi có cảm tưởng là khi một người Việt Nam nói, ngay cả đến nghìn năm sau này nữa, khi nhắc đến các sự kiện trên, trong lòng người Việt Nam trào dâng một niềm tự hào. Đó là chủ nghĩa dân tộc? Hay là lòng yêu nước?.
Đó là lòng yêu nước và chỉ là lòng yêu nước mà thôi.
Cuộc gặp lịch sử với Nguyễn Ái Quốc
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Sự đô hộ của Pháp từ năm 1940 gắn liền với sự có mặt của quân đội Nhật. Lúc đó các ông có nhận thấy có những khả năng mới xuất hiện và nhiều sự kiện quan trọng sắp diễn ra hay không?.
Chúng tôi nhận định rằng tình hình quốc tế đang tạo ra thời cơ mới mà chúng tôi phải nắm bắt và sẵn sàng hành động. Chúng tôi nhận định rằng thế giới đang bước vào một chu kỳ chiến tranh và cách mạng mới. Chúng tôi chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp - Nhật. Chúng tôi đã đặt sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh thế giới mới. Từ mùa thu 1939 đến mùa xuân 1941 là giai đoạn then chốt. Thu 1939, chiến tranh thế giới bùng nổ; Xuân 1941, thành lập Mặt trận Việt Minh. Chính trong thời kỳ này đã hình thành và chín muồi ý tưởng về một mặt trận dân tộc thống nhất đấu tranh giành độc lập. Ý tưởng này do chính Bác Hồ nêu ra và Trung ương Đảng nhất trí.
Trả lời câu hỏi của Alain Ruscio về việc Võ Nguyên Giáp được lệnh bí mật rời Việt Nam đi Trung Quốc, Đại tướng nói: “Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã cho tôi biết quyết định của Đảng và tổ chức cho tôi ra đi. Tháng 5-1940, tôi rời khỏi Hà Nội, lòng đau như cắt vì tôi để lại đó Quang Thái, vợ tôi tay ẵm đứa con nhỏ. Tôi không ngờ rằng phút chia tay lại là phút vĩnh biệt. Tôi vượt biên giới trong một cuộc hành trình gian nan cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng, người mà tôi đã cùng hoạt động trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Vậy là đến cái giây phút trọng đại đối với ông cũng như đối với lịch sử nước ông (nếu tôi nói rộng ra là đối với cả lịch sử thế giới nữa), đó là lần đầu tiên ông gặp Nguyễn Ái Quốc?.
Đồng chí Hoàng Văn Thụ có ghé tai tôi nói: “Sang bên đó có thể gặp Nguyễn Ái Quốc”. Cuộc gặp diễn ra tháng 6-1940 tại Côn Minh với một người mang bí danh là Vương. Phạm Văn Đồng và tôi biết lúc đó Bác Hồ đang ở Nam Trung Quốc. Trên một con thuyền đậu tại Quý Hồ, chúng tôi gặp một người khoảng 50 tuổi rất nhanh nhẹn, linh hoạt, có một chùm râu thưa, không có vẻ gì là thượng cấp, rất gần gũi, giản dị.
Tuy gặp lần đầu nhưng tôi có cảm tưởng là đã quen biết từ lâu, nghe giọng nói của Người vẫn còn âm sắc miền Trung mặc dù Người đã xa nước khoảng 30 năm. Bác Hồ đã quen biết anh Đồng là người đã gặp Bác ở Quảng Đông khi hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Bác nói rất dễ thương: “Chú Đồng không già đi chút nào!”.
Đối với tôi thì Người nhận xét tôi giống như một cô gái! Cuộc gặp ngắn để không gây sự chú ý. Sau đó, chúng tôi thường gặp Bác lúc chỗ này lúc nơi khác, rất bất ngờ. Một thời gian sau, anh Đồng và tôi được cử đi Diên An, nhưng liền sau đó, có lệnh quay lại. Tình hình châu Âu đang biến chuyển mau lẹ. Phải về nước ngay chuẩn bị cho cuộc đấu tranh cách mạng. Đồng chí Vũ Anh về trước chọn được một địa điểm lý tưởng gần biên giới: Pắc Bó. Đầu năm 1941, Bác Hồ về đấy….
Các ông đã trở về Việt Nam và từ giờ phút này, các ông trải qua một cuộc sống triệt để bí mật. Ông có thể nói cho tôi biết những năm tháng hoạt động du kích từ 1941 đến 1945?.
Khoảng thời gian từ 1941 đến 1945, tôi nhiều lần bí mật qua lại biên giới, lúc sang Nam Trung Quốc, lúc trở về Pắc Bó tùy theo công việc. Đây là thời gian hoạt động vô cùng hào hứng chuẩn bị cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Chúng tôi tiến hành một công cuộc vận động quần chúng rộng lớn để tạo lực lượng. Chính quá trình này đã dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945...
Chính trị trọng hơn quân sự
Các ông sống như thế nào? Về vật chất và tinh thần?
Về tinh thần là vô cùng hứng khởi. Một kỷ niệm không bao giờ quên: Một đêm quanh đống lửa tại Pắc Bó, chúng tôi nghe Bác Hồ dự đoán: “Sự thất bại của chủ nghĩa phát xít là không thể tránh khỏi. Trong vòng bốn, năm năm nữa, Hitler và quân phiệt Nhật sẽ thua. Đó là thời cơ giải phóng Tổ quốc mến yêu của chúng ta”. Nói điều đó, đôi mắt Người rực sáng. Chúng tôi rất cảm động. Ngay trong những lúc hoạt động du kích khó khăn gian khổ nhất, chúng tôi không lúc nào ngừng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.
Về đời sống vật chất thì vô cùng thiếu thốn. Chúng tôi sống trong những hang hốc đầy rắn rết, đêm rét run cầm cập, có gì ăn nấy, thỉnh thoảng mới có chút thịt trộn rất nhiều muối, gọi là “thịt Việt Minh”.
Bác Hồ nhiều tuổi hơn chúng tôi nhưng lại có một sức chịu đựng phi thường. Người thích ứng với mọi hoàn cảnh. Người tự đặt cho mình một chế độ làm việc nghiêm ngặt. Bác dậy rất sớm (chính Bác đánh thức chúng tôi) tập thể dục rồi làm việc.
Sự khởi đầu thành lập mầm mống quân đội như thế nào?
Ban đầu là các tổ chức Tự vệ, là tổ chức bán vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ dân và quấy rối quân địch. Thanh niên nam nữ hăng hái tham gia. Rồi chuyển dần lên thành những nhóm vũ trang chuyên hoạt động quân sự bao gồm những phần tử trung kiên, phần lớn là đảng viên được giáo dục chính trị kỹ. Đến 22-12-1944 thành lập đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên gồm 34 chiến sĩ. Ngày này đã trở thành Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Lúc thành lập đội, Bác Hồ nhấn mạnh ưu tiên là công tác tuyên truyền, tức là chính trị trọng hơn quân sự...
Chúng ta đã đến giai đoạn tiền khởi nghĩa và khởi nghĩa. Lúc ấy ông làm gì?
Xuân - Hè năm 1945 đánh dấu một bước phát triển cực kỳ mạnh mẽ về lực lượng và ảnh hưởng của phong trào cách mạng. Công cuộc “Nam tiến” tiến hành rất kết quả. Tháng 6, chúng tôi thành lập Khu Giải phóng bao gồm Cao Bắc Lạng Thái Hà Tuyên. Tổng hành dinh đặt ở Tân Trào. Chúng tôi đã về đến rìa vùng đồng bằng. Giờ phút quân Nhật đầu hàng đến gần. Chúng tôi đã triệu tập Đại hội quốc dân và khi thời cơ đến, ra lệnh Tổng khởi nghĩa ngày 13 tháng 8. Liền sau đó là cuộc xuất quân về giải phóng Thái Nguyên. Binh lính bù nhìn đầu hàng không chống cự. Tôi nhận được một tờ báo Hà Nội đưa tin: Việt Minh đã thắng lợi trong cuộc mít tinh ngày 17. Các đại biểu khác vẫn còn ở Tân Trào. Riêng đồng chí Trường Chinh và tôi ở Thái Nguyên. Chúng tôi đánh giá: Tâm điểm của sự kiện trước đây là Thái Nguyên nay đã chuyển về Hà Nội. Chúng tôi lập tức về Hà Nội.
Lúc này cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra ở Hà Nội và lan rộng khắp cả nước.
Đúng như vậy. Về Hà Nội, chúng tôi trú tại ngôi nhà ở phố Hàng Ngang. Vài ngày sau, đón Bác Hồ về đấy.
Ngày 29, Hồ Chí Minh lập chính phủ lâm thời, chính phủ đầu tiên của Việt Nam. Ông được giao chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Việc đầu tiên là phải tạo thế và lực cho chính quyền cách mạng và bảo đảm cho quá trình tiến triển cách mạng không thể bị đảo ngược. Chúng tôi quyết định tổ chức cuộc mít tinh để Bác Hồ công bố bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2-9, tại Quảng trường Ba Đình, lễ Độc lập đã diễn ra hùng vĩ. Một triệu người tham dự nhưng chưa mấy người biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Bác Hồ trong ngày lịch sử ấy mặc bộ ka-ki giản dị và đi dép cao su…
Bậc thầy về chiến tranh cách mạng
Chúng ta hãy xem xét những vấn đề chiến lược của cuộc chiến tranh 30 năm. Các nhà quan sát đều cho rằng ông là bậc thầy về chiến tranh cách mạng. Vậy mà ông chưa trải qua một trường học quân sự nào. Ông là người duy nhất trong lịch sử thế giới bước thẳng từ một dân thường được giao công tác quân sự lên cấp Đại tướng.
Điều đó xảy ra vào tháng 5 năm 1948, bảy năm sau khi thành lập Mặt trận Việt Minh, một năm rưỡi sau khi cuộc chiến tranh lan rộng.
Ông không những là một nhà thực hành tài ba mà còn viết rất nhiều tác phẩm về chiến tranh cách mạng. Tác phẩm của ông được đọc trên toàn thế giới. Ông có thể tóm tắt cho tôi những điểm chính của chiến lược mà ông đã áp dụng thành công trong hai cuộc chiến tranh hay không?.
Ông đã giao cho tôi một bài tập khá phức tạp đấy. Học thuyết quân sự cổ điển, khoa học quân sự truyền thống dạy rằng muốn giành thắng lợi, phải biết tập trung cùng một lúc ưu thế quân số và ưu thế kỹ thuật. Ông có thể thấy điều đó ở Napoleon. Thế nhưng chúng tôi lại ở vào tình thế phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Chúng tôi phải chấp nhận, nếu không Tổ quốc chúng tôi sẽ bị thôn tính. Vậy đương đầu như thế nào? Đó là chiến tranh toàn dân.
Chiến tranh toàn dân là bí quyết của sự chiến thắng của chúng tôi. Mỗi làng là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi chi bộ Đảng là một bộ tham mưu. Quân địch bị bao vây trong biển cả của nhân dân chống lại chúng, bị mù, bị điếc, đánh vào chỗ trống. Còn chúng tôi thì có muôn tai nghìn mắt, có thể biết phải hành động ra sao. Tôi đã từng nói với ông đây là sự tổng hợp kinh nghiệm ngàn đời chống ngoại xâm của dân tộc chúng tôi. Chiến tranh toàn dân không chỉ là sáng tạo của nhân dân Việt Nam. Lenin đã từng nói: “Điều quyết định cuối cùng trong mọi cuộc chiến tranh là tinh thần của quần chúng đổ máu trên chiến trường.
So sánh lực lượng hai bên phải nhìn tổng thể cả chính trị, kinh tế, quân sự. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị. Đường lối quân sự bắt nguồn và phục tùng đường lối chính trị. Chính vì vậy mà người chỉ huy tối cao của quân đội chúng tôi là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Sai lầm cơ bản của đối phương là không hiểu những điều đó. Họ không tìm ra được chiến lược để chiến thắng chúng tôi...
Chính trị quyết định quân sự. Có phải vì vậy mà phương Tây cho rằng ông là một vị tướng chính trị?
Chúng tôi bao giờ cũng chú trọng giáo dục chính trị. Sự tăng cường sức mạnh của hậu phương trên mọi lĩnh vực đặc biệt về mặt chính trị là yếu tố cơ bản bảo đảm khả năng chiến đấu của quân đội. Một hậu phương vững mạnh là nhân tố thiết yếu bảo đảm chiến thắng. Không có hậu phương vững chắc, không thể có chiến thắng. Ngược lại, chúng tôi luôn biến hậu phương địch thành tiền phương ta. Chiến thuật của chiến tranh nhân dân là đối với địch đâu cũng là mặt trận, đối với chúng tôi đâu cũng là hậu phương.
Chúng tôi rất chú trọng công tác giáo dục chính trị cho quân đội. Gần một phần ba chiến sĩ là đảng viên cộng sản. Trong cán bộ chỉ huy thì tỷ lệ ấy còn cao hơn nhiều. Các tổ chức Đảng hoạt động trong mọi hoàn cảnh xây dựng và chiến đấu. Có một nhãn quan chính trị tức là chiến đấu trên mọi mặt trận: Khoét sâu những mâu thuẫn của địch, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế, điều này có vai trò rất quan trọng để cô lập kẻ xâm lược.
Sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân
Chúng ta hãy trở lại khoảng thời gian năm 1946, lúc bắt đầu cuộc chiến tranh. Các ông phải đương đầu với một đội quân nhà nghề mạnh, trang bị hiện đại. Mà các ông thì có những gì?.
Về số lượng thì hai bên gần bằng nhau: Quân Pháp có 90.000, chúng tôi cũng có một số lượng tương đương. Nhưng chúng tôi thiếu vũ khí, chỉ có ít nhiều súng đủ các loại, chúng tôi lập một công binh xưởng trong rừng sâu để chế tạo những thứ vũ khí đơn giản.
Quả thật là quá chênh lệch. Bên ngoài, người ta nghĩ các ông sẽ bị đè bẹp. Các ông chiến đấu trong vòng vây, về chính trị chưa có nước nào công nhận, về quân sự xa mọi sự chi viện. Tôi vừa đọc lại Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch. Tôi rất khâm phục. Lời kêu gọi toát lên một sự vững vàng, một sự bình thản, một niềm tin tất thắng.
Theo quan điểm quân sự cổ điển thì chúng tôi không đủ điều kiện để bắt đầu cuộc chiến tranh.
Tuy nhiên năm 1946, chúng tôi vừa trải qua thời kỳ hào hùng của Cách mạng tháng Tám. Nhân dân chúng tôi đã trưởng thành về chính trị, quyết tâm chiến đấu rất cao, sẵn sàng hy sinh tất cả để cứu nước... Tất cả đều biểu thị trong Lời kêu gọi của Bác Hồ. Đầu năm 1947, bộ máy Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy, một phần cơ xưởng đều đã di chuyển lên Việt Bắc ở an toàn khu. Chúng tôi chấp nhận mọi hy sinh để kháng chiến lâu dài.
Cho đến đầu những năm 50, chúng tôi chiến đấu trong vòng vây, không có sự liên hệ và chi viện của phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng tôi đã trụ vững. Quân đội đã lớn mạnh. Trong hè 1947, chúng tôi đã có 120.000 quân, tổ chức thành trung đội, đại đội, tiểu đoàn, và cuối năm 1949, đã thành lập Đại đoàn đầu tiên, Đại đoàn 308 lừng lẫy chiến công.
Điều làm cho chúng tôi tin tưởng vững chắc vào thắng lợi cuối cùng là sự đoàn kết và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn dân, đó là sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân.
Chi viện của Trung Quốc, Liên Xô
Lúc nào thì các ông có liên lạc với các bạn Trung Quốc?
Cuối năm 1949.
Điều đó thay đổi tất cả phải không?.

Có... và cũng không. Đừng quên là trước thời điểm ấy, chúng tôi, và chỉ một mình chúng tôi đã đánh quân Pháp, buộc chúng phải rút khỏi Bắc Cạn. Tháng 5-1949, chính phủ Pháp cử tướng Revers sang thị sát tình hình. Revers đánh giá tình hình bi quan. Chính ông ta tán thành việc rút quân Pháp khỏi tuyến biên giới Đồng Đăng - Móng Cái.
Cuộc rút khỏi Cao Bằng là thế nào?.
Đấy! Một sự thú nhận bất lực sau 2 năm diễn ra cuộc đại tấn công của quân Pháp năm 1947. Như vậy là đã có một chuyển biến trong tương quan lực lượng vào năm 1949. Đó chính là ý nghĩa của bản báo cáo của Revers. Lần đầu tiên, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp thú nhận rằng họ không thể thắng chúng tôi.
Ý nghĩa chiến thắng của Trung Quốc đối với các ông như thế nào?.
Hồng quân Trung Hoa tiến đến sát biên giới Việt Nam, sự công nhận của Bắc Kinh, rồi của Mạc Tư Khoa và các nước xã hội chủ nghĩa rất quan trọng đối với chúng tôi. Vòng vây bị phá vỡ, sự quân bình lực lượng đã đạt được, tất cả những điều đó rất thuận lợi cho chúng tôi. Sự chi viện của Liên Xô bước đầu là pháo phòng không, xe Molotova và thuốc men. Sự chi viện của Trung Quốc là vũ khí bộ binh, nhiều trang bị khác, huấn luyện và trang bị một số đơn vị Việt Nam trên đất Trung Quốc, cử cố vấn quân sự sang Việt Nam. Sức mạnh hỏa lực của chúng tôi được cải thiện đáng kể.

Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Alain Ruscio và Đại tướng Võ Nguyên Giáp diễn ra vào dịp kỷ niệm lần thứ 25 Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1979). Alain Ruscio nhớ lại: “Ngày hôm ấy, tôi đi qua một Hà Nội nghèo, phố xá đầy xe đạp và còn một tàu điện cũ kỹ từ thời thực dân. Tôi sung sướng nghĩ rằng: Tôi đã có được một “Cuộc hẹn gặp với lịch sử”...
Tôi khắc ghi trong tâm khảm hình ảnh đầu tiên: Tướng Giáp đứng trên cầu thang, còn tôi thì hăm hở bước lên bậc, mắt không rời khỏi ông.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra rất nồng ấm. “Đại tướng chỉ có thể tiếp ông khoảng dưới một giờ”. Thực tế tôi đã ngồi bên ông Giáp ba tiếng đồng hồ liền. Hai danh nghĩa của tôi: Phóng viên báo Nhân đạo và nhà sử học, chuyên gia về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã giúp tôi.
Vậy là vào dịp kỷ niệm 25 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi kỷ niệm 50 năm đã trôi qua. Trong 30 năm tôi đã nhiều lần được gặp Tướng Giáp trong mỗi dịp tôi đến Việt Nam, mà những dịp ấy thì nhiều. Duy chỉ có một lần: Tháng giêng năm 2010, ông không thể tiếp tôi vì ông đã quá yếu, ông vừa đạt tuổi 100 và nay ông đã vượt qua.
Mỗi lần gặp gỡ, tôi ghi chép liên tục. Và tự nhiên ý định viết một cuốn sách về các cuộc phỏng vấn nảy nở trong đầu tôi. Tuy nhiên làm điều này không dễ. Tướng Giáp, như mọi người Việt Nam và những người cộng sản, không thích nói đến “Tôi”. Đây không phải là một sự khiêm tốn giả tạo. Ông khẳng định: “Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử”.

Những sắc lệnh tối mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Trung tâm lưu trữ quốc gia III công bố, giới thiệu tới công chúng, nhân dân các tài liệu có giá trị đặc biệt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong đó có những sắc lệnh liên quan đến tổ chức Nhà nước, an ninh quốc phòng...trong thời gian ông giữ cương vị Bộ trưởng Nội vụ năm 1954.

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tâm lưu trữ quốc gia III tổ chức trưng bày chuyên đề, giới thiệu đến công chúng những tài liệu có giá trị đặc biệt của Đại tướng.




Với chuyên đề về "Vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", trung tâm giới thiệu những tài liệu, hình ảnh, đặc biệt là các sắc lệnh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký trong thời gian giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1945) về vấn đề tổ chức Nhà nước, an ninh quốc phòng, ổn định kinh tế và một số vấn đề khác trong năm đầu thành lập nước.




Trong đó nổi bật một số sắc lệnh (SL) như SL ấn định Quốc kỳ Việt Nam, SL thành lập Qũi Độc lập, SL ấn định thời hạn và thể lệ Tổng tuyển cử bầu Đại biểu Quốc hội đầu tiên, SL bắt buộc học chữ không mất tiền và nhiều văn bản quan trọng khác.



Nội dung chuyên đề thứ hai được giới thiệu về "Vị tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam - Đại tướng đầu tiên của Quân đội Việt Nam".

Phần này trưng bày những tài liệu, hình ảnh về những hoạt động nổi bật trong lĩnh vực quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (từ 1944 với việc thành lập và chỉ huy Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, trong kháng chiến chống thực dân Pháp với các chiến dịch mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. trong kháng chiến chống Mỹ qua các thời điểm lịch sử quan trọng). Trong đó có SL của Chủ tịch Chính phủ phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp.



Chuyên đề đang được trưng bày tại Phòng Đọc của Trung tâm lưu trữ quốc gia III.

Một số SL quan trọng được trưng bày :