Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Cải cách lương công chức, viên chức từ 2003 đến nay:

Lương không đủ sống, công chức tìm cách 'xoay'

  Do thu nhập thấp, cán bộ, công chức tùy theo năng lực, sở trường, chuyên môn mà tìm mọi cách, mọi việc có thể làm để tạo ra thu nhập. Nghịch lý là lương không đủ sống nhưng nhiều người sống đàng hoàng... - Đánh giá của Bộ Nội vụ khi nhìn lại cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức từ năm 2003 đến nay.

Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công hiện hành được thực hiện từ ngày 01/01/2003 theo Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2003 - 2007 đã được Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX thông qua (Kết luận số 21-KL/TW ngày 07/8/2003) và Chính phủ đã báo cáo tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XI (tháng 10/2003).

Đến cuối năm 2007, Ban Chỉ đạo nghiên cứu và thực hiện cải cách chính sách tiền lương Nhà nước đã tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Đề án tiền lương giai đoạn 2003 - 2007 và xây dựng Đề án tiền lương giai đoạn 2008 - 2012 báo cáo Ban cán sự Đảng Chính phủ, Ban Bí thư Trung ương và Bộ Chính trị trình Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X thông qua (Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008), trong đó đã nhấn mạnh: “Tiếp tục quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng: Coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

Từ đó, nghiên cứu thực hiện các giải pháp có tính đột phá trong tạo nguồn cho cải cách chính sách tiền lương”; “Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Trên cơ sở đó, hình thành các cơ chế tiền lương (hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp) ngày càng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo động lực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước”.

Đồng thời, cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức là một nội dung của Chương trình cải cách tổng thể hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 với các nội dung như sau:

“Cải cách tiền lương theo quan điểm: coi tiền lương là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người, đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức và hoạt động công vụ. Những việc chính là:

- Nâng mức lương tối thiểu cho cán bộ, công chức đủ sống bằng lương. Cải cách hệ thống thang lương, bảng lương trên cơ sở xem xét tính chất và đặc điểm lao động của các loại cán bộ, công chức; điều chỉnh bội số và hệ số tiền lương trong các thang, bảng lương;

- Chậm nhất đến năm 2005, thực hiện xong cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, thực hiện tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương, điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội;

Chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức đã được cải cách từ năm 2003 đến nay và sẽ tiếp tục được cải cách trong giai đoạn 2012 - 2020. Ảnh minh họa: Bình Minh

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ cán bộ, công chức cho cán bộ, công chức làm việc trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm, độc hại….”
Cải cách chính sách tiền lương là vấn đề kinh tế - xã hội hệ trọng, phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều năm đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, đòi hỏi phải được cân nhắc kỹ nhiều mặt, cả về nội dung cải cách và lộ trình thực hiện cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, nên trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước đã căn cứ vào tình hình thực tế kinh tế - xã hội của đất nước để triển khai những bước đi phù hợp nhằm bảo đảm cân đối kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước, bảo đảm an sinh xã hội,…, cụ thể:

Hàng năm, Chính phủ đã xem xét điều chỉnh mức lương tối thiểu chung; sửa đổi, bổ sung chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp đặc thù đối với một số ngành, nghề; bổ sung chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức một số chuyên ngành; sửa đổi, bổ sung các chế độ phụ cấp lương cho phù hợp; thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với các cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp,...đã góp phần từng bước hoàn thiện chế độ tiền lương và cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên chức.

Tuy nhiên, mức độ cải thiện, bước đi còn chậm và từng nội dung của chế độ tiền lương hiện hành còn những hạn chế như: Mức lương tối thiểu chưa đảm bảo được nhu cầu tối thiểu của người hưởng lương; quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa còn bình quân; thang, bậc lương và các chế độ phụ cấp còn phức tạp, chưa thực sự hợp lý giữa các ngành, nghề và các loại cán bộ, công chức, viên chức; việc đổi mới cơ chế tài chính để tạo nguồn cho cải cách tiền lương và đổi mới cơ chế tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm,...dẫn đến chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ, công chức, viên chức gắn bó, tận tâm với công việc, …

Để có cơ sở nghiên cứu, đề xuất cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2012 – 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Bộ Nội vụ báo cáo tổng kết thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức từ năm 2003 đến nay và định hướng cải cách giai đoạn 2012 – 2020 như sau:

I. VỀ MỨC LƯƠNG TỐI THIỂU:

1. Kết quả đạt được:

a) Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Lao động thì mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác. Đồng thời, chế độ tiền lương hiện hành quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức bằng mức lương tối thiểu chung là mức lương thấp nhất (mức lương của nhân viên phục vụ bậc 1), được dùng làm căn cứ để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương, mức phụ cấp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và được dùng làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

b) Mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức nêu trong Đề án cải cách tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 và 2008 – 2012 như sau:

- Đề án giai đoạn 2003 – 2007 dự kiến mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức cao hơn mức lương tối thiểu chung, cụ thể:

Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Mức lương tối thiểu chung của Đề án (1.000đ/tháng)
290
290
300
320
340
Mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức của Đề án (1.000 đ/tháng)
% cao hơn so với mức lương tối thiểu chung
290

0%
290

0%
320

7%
350

9%
400

18%

- Đề án giai đoạn 2008 – 2012 dự kiến mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức bằng mức lương tối thiểu chung (bằng mức lương tối thiểu vùng IV – vùng thấp nhất của khu vực doanh nghiệp); đồng thời áp dụng chế độ phụ cấp công vụ, cụ thể:

Năm
2008
2009
2010
2011
2012
Mức lương tối thiểu chung của Đề án (1.000đ/tháng)
540
630
730
850
990
Mức phụ cấp công vụ của Đề án[1] (% tính trên mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có)
0%
10%
20%
30%
40%


[1] Theo Đề án tiền lương giai đoạn 2008 – 2012 thì mức phụ cấp công vụ cao nhất đến năm 2013 là 50% (chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang).

c) Thực hiện các nội dung của Đề án cải cách tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 và 2008 – 2012, từ tháng 01/2003, Chính phủ đã 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, cụ thể là:

- Kết quả điều chỉnh mức lương tối thiểu chung theo Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007:

+ Tháng 01/2003 điều chỉnh từ 210.000 đồng lên 290.000 đồng/tháng (tăng thêm 38,1%);

+ Tháng 10/2005 điều chỉnh từ 290.000 đồng lên 350.000 đồng/tháng (tăng thêm 20,7%);

+ Tháng 10/2006 điều chỉnh từ 350.000 đồng lên 450.000 đồng/tháng (tăng thêm 28,6%).
Từ năm 2003 đến hết năm 2007, mức lương tối thiểu chung đã được điều chỉnh 3 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 450.000 đồng/tháng, bằng 2,143 lần, tăng thêm 114,3%, cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) +46,75% và mức tăng chỉ số giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống +95,45%. Như vậy, mức tăng tiền lương thực tế so với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là +46,02% và so với chỉ số giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống là +9,64%, đời sống của người hưởng lương đã có phần được cải thiện.

- Kết quả điều chỉnh mức lương tối thiểu chung theo Đề án tiền lương giai đoạn 2008 – 2012:

+ Tháng 01/2008 điều chỉnh từ 450.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng (tăng thêm 20,0%);

+ Tháng 5/2009 điều chỉnh từ 540.000 đồng lên 650.000 đồng/tháng (tăng thêm 20,4%);

+ Tháng 5/2010 điều chỉnh từ 650.000 đồng lên 730.000 đồng/tháng (tăng thêm 12,3%);

+ Tháng 5/2011 điều chỉnh từ 730.000 đồng lên 830.000 đồng/tháng (tăng thêm 13,7%).
Từ năm 2008 đến năm 2011, mức lương tối thiểu chung đã được điều chỉnh 4 lần từ 450.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, bằng 1,844 lần, tăng thêm 84,4%, cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) +65,09% và thấp hơn mức tăng chỉ số giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống +99,05%. Như vậy, mức tăng tiền lương thực tế so với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là +11,72% và so với chỉ số giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống là -7,34%. Đây là giai đoạn nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta thấp hơn so với giai đoạn 2003 – 2007, lạm phát tăng cao hơn nhiều so với dự kiến, nên tuy Chính phủ đã chú trọng đến việc điều chỉnh tiền lương nhưng tiền lương thực tế bị giảm sút, đời sống của người hưởng lương gặp khó khăn.

Tính chung từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, bằng 3,952 lần, tăng thêm 295,2% cao hơn mức tăng chỉ số giá tiêu dùng 142,27% và mức tăng GDP là 85,9%. Việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung nêu trên được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 và 2008 – 2012, có điều chỉnh linh hoạt theo mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của ngân sách nhà nước để từng bước cải thiện đời sống của cán bộ, công chức .

2. Hạn chế:

Việc thực hiện mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức chưa đạt được các mục tiêu của Đề án giai đoạn 2003 – 2007, giai đoạn 2008 – 2012 và của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, cụ thể:

a) Việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung mới thực hiện chủ yếu trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng và khả năng ngân sách, chưa bảo đảm được nhu cầu tối thiểu của cán bộ, công chức, mức tăng tiền lương thực tế thấp nên đời sống của người hưởng lương còn gặp nhiều khó khăn,…

So sánh mức lương tối thiểu chung với kết quả tính toán của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội theo phương pháp nhu cầu tối thiểu (chưa tính đủ tiền nhà trong tiền lương) như sau:


Nội dung
Mức lương tối thiểu tính theo phương pháp nhu cầu tối thiểu (chưa tính đủ tiền nhà)
Mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định
Tỷ lệ giữa mức lương ở cột 3 so với cột 2
(1)
(2)
(3)
(4)
Năm 2003
576.000 đ
290.000
50,35%
Năm 2008
1.048.000 đ
540.000 đ
51,53%
Năm 2011
1.410.000 đ
830.000 đ
58,87%

Tính toán theo phương pháp nhu cầu tối thiểu (chưa tính đủ tiền nhà) theo giá năm 2008 thì cơ cấu chi tiêu lương thực, thực phẩm bảo đảm 2.300 Kcal/người/ngày là 52,64% và chi tiêu phi lương thực, thực phẩm là 47,36%. Trong thực tế, mức lương tối thiểu chung do Chính phủ ban hành chỉ bảo đảm bằng khoảng 50% mức lương tối thiểu tính theo phương pháp nhu cầu tối thiểu (chưa tính đủ tiền nhà) thì mới bảo đảm cho nhu cầu tối thiểu về chi tiêu lương thực, thực phẩm, chưa bảo đảm được các chi tiêu khác.

b) Chưa thực hiện được việc quy định mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức cao hơn mức lương tối thiểu chung theo Đề án giai đoạn 2003 – 2007.

c) Việc điều chỉnh mức lương tối thiểu giai đoạn 2008 – 2012 đối với cán bộ, công chức còn chậm hơn so với khu vực doanh nghiệp.

Mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức thấp hơn nhiều so với mức lương tối thiểu vùng từ 1.400.000 đồng/tháng (vùng IV – vùng thấp nhất) đến 2.000.000 đồng (vùng I – vùng cao nhất) của khu vực doanh nghiệp quy định tại Nghị định số 70/2011/NĐ-CP ngày 22/8/2011 của Chính phủ, cụ thể là: Mức lương tối thiểu 830.000 đồng từ tháng 5/2011 áp dụng đối với cán bộ, công chức chỉ bằng 59,3% vùng IV – vùng thấp nhất (vùng có thị trường lao động kém phát triển nhất như các huyện nghèo,…) và bằng 41,5% vùng I – vùng cao nhất (vùng có thị trường lao động phát triển nhất như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,…).

Như vậy, tuy từ năm 2003 đến nay Chính phủ thường xuyên điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức chưa bảo đảm được nhu cầu tối thiểu của cán bộ, công chức, kéo theo các mức lương của cán bộ, công chức, viên chức cũng thấp theo, chưa đủ để cán bộ, công chức sống bằng tiền lương, thấp hơn mặt bằng tiền lương, tiền công trên thị trường nên khó thu hút được người có tài năng vào làm cán bộ, công chức, chưa tạo ra động lực cho cán bộ, công chức tận tâm, gắn bó với công việc, nâng cao trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ được giao với chất lượng tốt, chưa làm cơ sở cho việc thực hiện nghiêm tính kỷ luật trong thực thi công vụ, chưa tạo điều kiện cho việc cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng,…

II. VỀ QUAN HỆ MỨC LƯƠNG TỐI THIỂU – TRUNG BÌNH – TỐI ĐA

1. Kết quả đạt được:

Theo Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 và căn cứ Kết luận số 21/KL-TW ngày 07/8/2003 của Hội nghị Trung ương 8 khóa IX “Khi xây dựng quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa phải chú trọng nâng thêm mức lương cho các đối tượng lương trung bình và thấp, đồng thời nâng mức lương tối đa để khuyến khích những người có trình độ chuyên môn cao.

Theo hướng đó, từ tháng 10/2004, điều chỉnh quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa từ 1 – 1,78 – 8,5 hiện nay lên 1 – 2,34 – 10”, việc mở rộng dãn cách quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình - tối đa đã được thực hiện từ tháng 10/2004 (theo các thang lương, bảng lương mới), trong đó hệ số lương trung bình (tốt nghiệp đại học qua tập sự - kỹ sư bậc 1) tăng từ 1,78 lên 2,34, tăng thêm 31,5%; hệ số lương tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) tăng từ 8,5 lên 10, tăng thêm 17,6%. Hệ số lương của Chủ tịch nước (cao nhất trong hệ thống bảng lương của Nhà nước) tăng từ 10 lên 13, tăng thêm 30%. Các mức lương thấp (nhân viên, cán sự) có mức (%) tăng cao hơn để có lợi cho số đông cán bộ, công chức.

Mức lương bằng tiền tính theo quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa hiện hành (1-2,34-10) và mức lương tối thiểu chung 830.000 đồng/tháng từ tháng 5/2011 như sau:

Chức danh Hệ số lương Mức tiền lương tháng (chưa đóng 6% BHXH, 1,5% BHYT, 1% công đoàn phí) Mức tiền lương tháng (sau khi đã đóng 6% BHXH, 1,5% BHYT, 1% công đoàn phí)

Nhân viên phục vụ bậc 1 (thấp nhất) 1,00 830.000 đ/tháng 759.450 đ/tháng

Chuyên viên bậc 1 (đại học qua tập sự) 2,34 1.942.200 đ/tháng 1.777.133 đ/tháng

Chuyên gia cao cấp bậc 3 10,00 8.300.000 đ/tháng 7.594.500 đ/tháng

Tổng bí thư, Chủ tịch nước (cao nhất) 13,00 10.790.000 đ/tháng 9.872.850 đ/tháng

2. Hạn chế:

- Quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa theo Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 được thực hiện từ tháng 10/2004 đã mở rộng hơn so với trước đó nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với các mức lương trên thị trường, dẫn đến hệ thống thang, bậc lương còn bình quân, mức lương xác định đối với các chức danh tương ứng chưa phản ánh đúng mức độ phức tạp công việc. Mức lương trung bình của cán bộ, công chức còn thấp so với thu nhập trung bình của lao động xã hội , chưa bảo đảm cho công chức sống được bằng tiền lương, nên không có tính cạnh tranh, làm hạn chế khả năng giữ và thu hút người giỏi vào làm việc trong khu vực nhà nước.

- Theo Đề án tiền lương giai đoạn 2008 – 2012 đã được thông qua tại Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X thì đến năm 2011 tiếp tục thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, trên cơ sở đó tiếp tục thu gọn thang, bảng, ngạch, bậc lương và hoàn thiện các chế độ phụ cấp, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi. Tuy nhiên, đến nay chưa thực hiện được nhiệm vụ này của Đề án tiền lương giai đoạn 2008 – 2012 do tình hình kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách nhà nước không đạt như dự kiến.

III. HỆ THỐNG THANG LƯƠNG, BẢNG LƯƠNG:

1. Kết quả đạt được:

Hệ thống thang lương, bảng lương hiện hành được thực hiện theo Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 từ tháng 10/2004 trên cơ sở kế thừa những tiến bộ và khắc phục những hạn chế của hệ thống bảng lương trước đây. Theo đó, đã thu gọn một bước hệ thống ngạch, bậc lương, mở rộng khoảng cách chênh lệch giữa các bậc lương. Hệ thống thang, bảng lương đã bao quát được các ngành, lĩnh vực và các đối tượng liên quan, giảm dần phức tạp, đảm bảo tương quan giữa các đối tượng, các ngành và các lĩnh vực. Cụ thể như sau:

- Quy định bảng lương chức vụ đối với các chức danh từ Bộ trưởng và tương đương trở lên và cán bộ cấp xã . Các chức danh lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm) còn lại từ Trung ương đến cấp huyện và công chức cấp xã có trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên thực hiện xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch, bậc công chức, viên chức và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo.

- Tách bảng lương hành chính với bảng lương sự nghiệp để gắn với cơ chế hình thành nguồn trả lương, cách thức trả lương phù hợp với trao quyền tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về quản lý, sử dụng lao động và nguồn tài chính, tự chủ về trả lương cho người lao động trong đơn vị sự nghiệp. Rút bớt số bậc trong các ngạch (cán sự trở xuống rút bớt 4 bậc, chuyên viên trở lên rút bớt 1 bậc so với trước), cụ thể là:

+ Đối với công chức chuyên môn, nghiệp vụ (từ cán sự và tương đương trở lên) làm việc ở các cơ quan hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể, toà án, kiểm sát, thanh tra, tư pháp áp dụng thống nhất một bảng lương. Các điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi ngành, nghề thực hiện bằng phụ cấp để thu gọn thang lương, bảng lương; các ngành toà án, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra được thực hiện phụ cấp trách nhiệm; rút bớt số bậc lương trong các nhóm ngạch công chức để tăng khoảng cách giữa các bậc, giảm bớt tính bình quân trong tiền lương. Khi đã xếp bậc cuối cùng trong ngạch thì hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung (không khống chế tối đa); đồng thời đã quy định chế độ nâng bậc sớm (thưởng) khi đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ và kéo dài thời gian nâng bậc (phạt) khi không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị kỷ luật.

+ Đối với viên chức ở các ngành sự nghiệp áp dụng chung một bảng lương để làm căn cứ cho việc cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, để đóng – hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ chế độ. Tiền lương thực trả phụ thuộc vào nguồn thu và kết quả hoạt động của từng đơn vị sự nghiệp. Các ngành giáo dục, y tế,… được thực hiện chế độ phụ cấp ưu đãi phù hợp.

+ Đối với công chức, viên chức thừa hành phục vụ trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội áp dụng một bảng lương chung.

2. Hạn chế:

- Trong quá trình thực hiện hệ thống thang, bảng lương theo Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 từ tháng 10/2004 đến nay đã bộc lộ các bất hợp lý cần được nghiên cứu để sửa đổi cho phù hợp như sau:

+ Số lượng ngạch, bậc lương vẫn khá phức tạp. Việc trả lương, quản lý và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức theo ngạch, bậc của ngành chuyên môn chủ yếu dựa vào bằng cấp đào tạo và thâm niên công tác, chưa theo yêu cầu vị trí việc làm, dẫn đến chạy theo bằng cấp, nặng về thi cử, chưa gắn với kết quả thực thi nhiệm vụ của từng vị trí việc làm đảm nhận. Trong không ít cơ quan, đơn vị có tình trạng người có ngạch, bậc lương thấp hơn lại làm được hoặc làm tốt hơn những phần việc của người có ngạch, bậc lương cao hơn, nhưng không được trả lương cao hơn.

+ Tương quan về tiền lương và phụ cấp chức vụ của các chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị – xã hội còn nhiều ý kiến khác nhau.

+ Nguyên tắc thiết kế bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức, viên chức chuyên ngành vẫn còn những ý kiến khác nhau: Thiết kế bảng lương áp dụng chung , hay thiết kế bảng lương riêng đối với từng ngành. Đến nay, có một số ngành đề nghị thiết kế bảng lương riêng như: Toà án nhân dân, Kiểm sát nhân dân, Ngoại giao và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

+ Bảng lương hiện hành quy định mỗi loại công chức, viên chức (ngạch tương đương) có một số nhóm mức lương là phức tạp và chưa hợp lý .

- Đến nay, chưa thực hiện việc ban hành hệ thống thang, bảng lương mới trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa theo bước đi của Đề án tiền lương giai đoạn 2008 – 2012.

IV. VỀ CÁC CHẾ ĐỘ PHỤ CẤP LƯƠNG:

1. Kết quả đạt được:

a) Từ tháng 10/2004 đến tháng 12/2007:

Trên cơ sở nguyên tắc thiết kế của hệ thống thang, bảng lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP, ngoài mức lương theo ngạch, bậc công chức, tại thời điểm tháng 10/2004, Chính phủ quy định 12 chế độ phụ cấp lương để khuyến khích, thu hút cán bộ, công chức, viên chức công tác ở vùng khó khăn hoặc theo điều kiện lao động của ngành, nghề, ....cụ thể là:

+ Nhóm phụ cấp theo phân loại chức danh và phân loại tổ chức: Phụ cấp chức vụ lãnh đạo; phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác.

+ Nhóm phụ cấp theo vùng: Phụ cấp khu vực; phụ cấp đặc biệt; phụ cấp thu hút.

+ Nhóm phụ cấp theo điều kiện lao động và ưu đãi ngành, nghề công việc: Phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp lưu động; phụ cấp trách nhiệm công việc; phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề; phụ cấp phục vụ quốc phòng, an ninh.

+ Nhóm phụ cấp theo thời gian công tác: phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề.

Trong quá trình thực hiện, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực đã chủ trì, phối hợp với liên Bộ xây dựng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với 11 ngành nghề và chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với 5 ngành, nghề.

b) Từ tháng 01/2008 đến nay:

- Bổ sung 3 chế độ phụ cấp mới gồm: Phụ cấp theo loại xã; phụ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và phụ cấp công vụ.

- Bổ sung hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo đối với các chức danh lãnh đạo thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại I; nâng hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo đối với chức danh Bí thư tỉnh ủy từ 1,3 lên 1,4, của chức danh Phó trưởng đoàn thể ở Trung ương, Phó bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh từ 1,25 lên 1,3 và của chức danh Tư lệnh quân khu từ 1,20 lên 1,25.

- Bổ sung đối tượng hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức, viên chức chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự, kiểm lâm, nhà giáo, kiểm tra Đảng

- Sửa đổi, bổ sung phụ cấp ưu đãi nghề đối với viên chức ngành y tế (mức cao nhất 70%), ngành khí tượng thủy văn (mức cao nhất 30%) và phụ cấp công tác Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội mức 30%.

Trong điều kiện mức lương theo ngạch, bậc, chức vụ còn thấp thì việc thực hiện các chế độ phụ cấp lương đã bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức theo địa bàn công tác hoặc điều kiện làm việc và chính sách ưu đãi, thu hút của Nhà nước theo nghề, công việc, phát huy tác dụng các chức năng của tiền lương, thúc đẩy phân công lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

2. Hạn chế:

Trong quá trình thực hiện các chế độ phụ cấp lương hiện hành đã phát sinh một số bất hợp lý như sau:

- Khung phụ cấp chức vụ lãnh đạo thấp, chênh lệch phụ cấp chức vụ lãnh đạo giữa cấp trưởng và cấp phó không đáng kể nên chưa thể hiện rõ thứ bậc trong hành chính. Mức tiền phụ cấp chức vụ chưa tương xứng với trách nhiệm công việc được giao.

- Việc giải quyết trước một bước về phụ cấp đối với một số đối tượng có tác dụng bổ sung thu nhập, động viên được một bộ phận cán bộ, công chức ở một số ngành, nghề (đến nay đã có 19 ngành được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề, trách nhiệm theo nghề và 9 ngành được hưởng phụ cấp thâm niên nghề) nhưng lại tạo ra phát sinh bất hợp lý mới như: các ngành, nghề chưa được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp thâm niên nghề cũng đề nghị được hưởng phụ cấp hoặc các ngành đã được hưởng phụ cấp thì đề nghị nâng mức hưởng phụ cấp cao hơn, tạo ra tâm lý so sánh giữa các ngành, nghề; khó thu hút, điều động công chức, viên chức có năng lực ở các đơn vị sự nghiệp về công tác trong các cơ quan quản lý nhà nước,...

Ví dụ:

+ Cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cấp huyện được hưởng phụ cấp bằng 30% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Do đó, phát sinh chênh lệch thu nhập giữa cán bộ, công chức cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội với các cơ quan Nhà nước (đều là đối tượng áp dụng quy định của Luật Cán bộ, công chức và xếp lương theo các ngạch công chức hành chính), cụ thể: Đồng chí Phó bí thư thường trực huyện ủy và đồng chí Phó bí thư huyện ủy – Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đều đang xếp hệ số lương 4,74 bậc 2 ngạch chuyên viên chính và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo 0,70. Tính theo mức lương tối thiểu chung 830.000 đồng/tháng từ tháng 5/2011 thì tiền lương của đồng chí Phó bí thư huyện ủy – Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là 4.515.000 đồng/tháng và tiền lương của đồng chí Phó bí thư thường trực huyện ủy được hưởng thêm 30% phụ cấp công tác đảng, đoàn thể chính trị - xã hội là 5.869.760 đồng/tháng (cao hơn 1.354.760 đồng/tháng).

+ Nhà giáo được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề từ 25% đến 70% và phụ cấp thâm niên nghề (phụ cấp này được tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội), viên chức y tế được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề từ 20% đến 70%, nên khó tuyển dụng được nhà giáo, viên chức y tế có năng lực về công tác tại Bộ, Sở, phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân do công chức hành chính chỉ được hưởng tiền lương theo ngạch, bậc công chức và phụ cấp công vụ (mức 10% từ ngày 01/5/2011), thấp hơn nhiều so với viên chức ở các đơn vị sự nghiệp.

- Việc giải quyết bổ sung các chế độ phụ cấp còn mang tính chắp vá, không đồng bộ, lại được quy định trong nhiều văn bản luật, nghị định hướng dẫn luật chuyên ngành và do nhiều cơ quan giải quyết, nên đã phá vỡ các nguyên tắc thiết kế ban đầu, làm mất ý nghĩa của từng loại phụ cấp, phát sinh bất hợp lý về thu nhập trong nội bộ cơ quan, đơn vị. Ví dụ: Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII quy định về chủ trương, định hướng đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 – 2011 đến năm học 2014 – 2015, nhưng lại có quy định “bảo lưu phụ cấp đứng lớp trong thời hạn 3 năm cho nhà giáo được điều động làm công tác quản lý giáo dục”; theo đó, nhà giáo được tuyển dụng vào làm việc trong cơ quan nhà nước trở thành công chức hành chính và được xếp lương theo các ngạch công chức, nhưng lại được hưởng bảo lưu phụ cấp ưu đãi theo nghề của nhà giáo, dẫn đến phá vỡ nguyên tắc chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề chỉ áp dụng đối với công chức, viên chức chuyên ngành trong thời gian trực tiếp làm nghề hoặc công việc đó, làm phát sinh chênh lệch thu nhập ngay trong nội bộ của cơ quan Sở, phòng, đồng thời phát sinh đề nghị của các ngành về vấn đề này.

- Chưa có quy định chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức không giữ chức danh lãnh đạo kiêm nhiệm công việc của người khác mà giảm được biên chế; có nhiều mức phụ cấp kiêm nhiệm (cán bộ và công chức cấp xã là 20%; cán bộ và công chức từ cấp huyện trở lên là 10%).

- Phụ cấp theo đơn vị hành chính ở cấp huyện và cấp xã chưa nhất quán, cụ thể là ở cấp huyện quy định phụ cấp chức vụ khác nhau theo phân loại đô thị, còn ở cấp xã quy định phụ cấp theo loại xã.

V. VỀ CHẾ ĐỘ NÂNG BẬC LƯƠNG, NÂNG NGẠCH

1. Kết quả đạt được:

Chế độ tiền lương hiện hành tiếp tục kế thừa chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn khi có thông báo nghỉ hưu của chế độ tiền lương năm 1993; đồng thời bổ sung chế độ nâng bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ (tỷ lệ không quá 5% tổng số cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị), đã có quy định xếp lên bậc lương cao hơn đối với người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao hơn tiêu chuẩn khi tuyển dụng (người có trình độ thạc sĩ, bác sĩ nội trú xếp bậc 2; người có trình độ tiến sĩ xếp bậc 3) hoặc người có thời gian công tác đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài khu vực nhà nước.

Việc thi nâng ngạch công chức, viên chức đã được tổ chức thường xuyên, tạo điều kiện cho những người có tài năng (trình độ, kinh nghiệm) được bổ nhiệm và xếp lương ở ngạch cao hơn theo công việc đảm nhiệm. Triển khai thực hiện Luật Cán bộ, công chức và khuyến khích, động viên người có tài năng trong hoạt động công vụ, từ năm 2011 Bộ Nội vụ tiến hành tổ chức thi nâng ngạch cạnh tranh đối với các ngạch công chức.

2. Hạn chế:

Trong quá trình thực hiện chế độ nâng bậc, nâng ngạch đã phát sinh một số bất hợp lý như sau:

- Việc thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa kịp thời, công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất mức độ hoàn thành nhiệm vụ để làm cơ sở xem xét nâng bậc lương.

- Tỷ lệ 5% được xét nâng bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc còn thấp. Trên thực tế số công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo được nâng bậc lương còn hạn chế, nên chính sách này chưa có tác động nhiều đến đội ngũ công chức, viên chức chuyên môn, nghiệp vụ.

- Việc thi nâng ngạch còn nặng về giải quyết chính sách, chưa gắn với vị trí việc làm do chưa xây dựng được cơ cấu ngạch công chức, viên chức.

VI. CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP:

1. Kết quả đạt được:

a) Đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội:

- Đã thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ, trên cơ sở đó thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên góp phần đẩy mạnh thực hiện quy định của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước. Trong phạm vi biên chế và kinh phí hoạt động được giao, các cơ quan hành chính đã chủ động nghiên cứu cải tiến quy trình thực hiện nhiệm vụ và ban hành nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động. Từ đó, tiết kiệm được kinh phí hoạt động thường xuyên, vừa góp phần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện đời sống của người hưởng lương. Kết quả cụ thể như sau:

Ở Trung ương: Theo số liệu báo cáo của 13 Bộ, cơ quan ngang Bộ về kết quả thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP thì trong năm 2009, các cơ quan nhà nước ở Trung ương tiết kiệm được khoảng 7,48% số biên chế được giao và tiết kiệm được khoảng 8,72% số kinh phí được giao thực hiện tự chủ. Có khoảng 98% cơ quan, đơn vị có thu nhập tăng thêm, trong đó:
+ 90,8% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm dưới 0,2;
+ 2,2% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 0,2 đến dưới 0,3;
+ 0,3% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 0,3 đến dưới 0,4;
+ 6,8% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 0,4 trở lên.

Người có mức thu nhập tăng thêm cao nhất là 18.188.000 đồng/tháng (Văn phòng Trung ương về phòng, chống tham nhũng); người có mức thu nhập tăng thêm thấp nhất là 41.667 đồng/tháng (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).
Ở cấp tỉnh: Theo số liệu báo cáo của 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về kết quả thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP thì trong năm 2009, các cơ quan nhà nước ở cấp tỉnh tiết kiệm được khoảng 7,18% số biên chế được giao và tiết kiệm được khoảng 5,23% số kinh phí được giao tự chủ. Có khoảng 58,9% cơ quan, đơn vị có thu nhập tăng thêm, trong đó:
+ 80,8% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm dưới 0,2;
+ 8,8% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 0,2 đến dưới 0,3;
+ 5,2% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 0,3 đến dưới 0,4;
+ 5,2% cơ quan, đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 0,4 trở lên.

Người có mức thu nhập tăng thêm cao nhất là 10.884.000 đồng/tháng (tỉnh Hà Tĩnh); người có mức thu nhập tăng thêm thấp nhất là 17.000 đồng/tháng (tỉnh Đồng Tháp).

- Đã thực hiện cơ chế quản lý tài chính và biên chế đối với một số cơ quan theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo nguyên tắc trên cơ sở số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và nguồn kinh phí được sử dụng, mức chi tiền lương, tiền công bình quân đối với cán bộ, công chức và người lao động cao hơn so với chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức do Nhà nước quy định (lương ngạch, bậc, chức vụ và các loại phụ cấp, trừ phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ), cụ thể:

+ Không quá 1,8 lần đối với cán bộ, công chức và người lao động các cơ quan: Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia;

+ Không quá 3 lần đối với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

- Ngoài thu nhập từ tiền lương, các cơ quan, tổ chức vận dụng các quy định của Nhà nước đã bổ sung thu nhập có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công chức như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng cho người chủ trì hoặc tham gia đóng góp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề tài, thù lao báo cáo viên hoặc giảng viên kiêm nhiệm, tiền hỗ trợ ăn trưa...Đối với những người giỏi, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì khoản thu nhập ngoài lương này lớn hơn nhiều so với lương cơ bản hàng tháng.

b) Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:

Căn cứ Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và các văn bản hướng dẫn, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp trong thời gian qua. Kết quả cụ thể như sau:

- Ở Trung ương (theo số liệu báo cáo của 13 Bộ, cơ quan ngang Bộ) :

Cơ cấu phân loại các đơn vị sự nghiệp theo nguồn thu, gồm: 14,2% đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên; 72,1% đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí chi thường xuyên và 13,7% đơn vị do ngân sách nhà nước cấp toàn bộ;
Cơ cấu kinh phí được giao quyền tự chủ, gồm: 40,8% kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và 59,2% kinh phí từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị.
Có 43,7% đơn vị thực hiện tự chủ có thu nhập tăng thêm, trong đó:
45,3% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm dưới 1,0;
38,4% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 1,0 đến dưới 2,0;
9,3% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 2,0 đến dưới 3,0;
7% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm trên 3,0.

Người có mức thu nhập tăng thêm cao nhất là 42.700.000 đồng/tháng (Bộ Thông tin và Truyền thông); người có mức thu nhập tăng thêm thấp nhất là 83.000 đồng/tháng (Bộ Thông tin và Truyền thông).

- Ở cấp tỉnh (theo số liệu báo cáo của 20 tỉnh, thành phố trực thuộc TW):
Cơ cấu phân loại các đơn vị sự nghiệp theo nguồn thu, gồm: 4,5% đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên; 32,4% đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí chi thường xuyên và 63,2% đơn vị do ngân sách nhà nước cấp toàn bộ;
Cơ cấu kinh phí được giao quyền tự chủ, gồm: 59,3% kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và 40,7% kinh phí từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị.

Có 46,3% đơn vị thực hiện tự chủ có thu nhập tăng thêm, trong đó:
93,6% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm dưới 1,0;
4,9% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 1,0 đến dưới 2,0;
1,1% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm từ 2,0 đến dưới 3,0;
0,3% đơn vị có hệ số thu nhập tăng thêm trên 3,0.

Người có mức thu nhập tăng thêm cao nhất là 12.640.000 đồng/tháng (Trung tâm nước sạch vệ sinh môi trường tỉnh Vĩnh Long); người có mức thu nhập tăng thêm thấp nhất là 22.000 đồng/tháng (Thư viện tỉnh Bình Dương).

Việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập là phù hợp với tính chất hoạt động của loại hình tổ chức này, vừa khuyến khích đơn vị nâng cao chất lượng hoạt động, phục vụ nhân dân được tốt hơn, vừa tăng thêm nguồn thu cho đơn vị để bổ sung thu nhập cho công chức, viên chức và người lao động, từ đó khuyến khích động viên công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, gắn bó với công việc. Hiện nay, số lượng công chức, viên chức và người lao động làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập khoảng 1.700.000 người. Do đó, việc đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính, tiền lương đối với các đơn vị sự nghiệp công lập là rất quan trọng, có tính quyết định cho việc cải cách tiền lương ở Việt Nam.

- Tương tự như cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, ngoài thu nhập từ tiền lương, các đơn vị sự nghiệp công lập vận dụng các quy định của Nhà nước đã bổ sung thu nhập từ nguồn kinh phí của đơn vị cho công chức, viên chức như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng cho người chủ trì hoặc tham gia đóng góp xây dựng văn bản, đề án, đề tài, thù lao báo cáo viên hoặc giảng viên kiêm nhiệm, làm thêm ngoài giờ, tiền hỗ trợ ăn trưa...

2. Hạn chế:

a) Việc thực hiện cơ chế quản lý tài chính và biên chế đối với các cơ quan hành chính nêu trên đã tạo điều kiện để các cơ quan thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn một số bất hợp lý như sau:
- Do định mức khoán kinh phí quản lý hành chính còn thấp nên phần tiết kiệm được để chi tiền lương tăng thêm cho cán bộ, công chức còn thấp (90,8% cơ quan, đơn vị ở Trung ương và 80,5% cơ quan, đơn vị ở cấp tỉnh có hệ số tăng thêm dưới 0,2).
- Việc chi trả tiền lương tăng thêm ở nhiều cơ quan, đơn vị còn bình quân (chi theo lương chức vụ, ngạch, bậc hoặc bằng mức tiền như nhau), chưa gắn với vị trí công việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ.
- Cán bộ, công chức và người lao động làm việc ở các cơ quan được thực hiện cơ chế quản lý tài chính và biên chế theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có thu nhập bình quân cao hơn từ 1 đến 2 lần so với các cơ quan khác đã tạo ra tâm lý so bì trong đội ngũ công chức.
- Trong nhiều trường hợp các khoản thu nhập ngoài lương có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của cán bộ, công chức nhưng cán bộ, công chức vẫn cho là đãi ngộ của Nhà nước thấp nên không coi trọng vào công việc chính đảm nhiệm mà dành nhiều thời gian cho các việc làm khác (trong giờ và ngoài giờ) để có thêm thu nhập.

b) Việc thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn nhiều bất hợp lý như sau:

- Việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của khu vực sự nghiệp công lập còn chậm, còn nặng về tư duy bao cấp, không đạt mục tiêu, tiến độ đề ra. Theo Kết luận số 20-KL/TW, thì trong năm 2008 ban hành khung giá dịch vụ về giáo dục đào tạo và khám chữa bệnh, .... nhưng đến nay mới ban hành được Nghị định của Chính phủ về học phí, trong đó nguyên tắc xác định học phí chưa theo định hướng tính đủ tiền lương, từng bước tính đủ các chi phí khác.

- Chưa thực sự đổi mới cơ chế tài chính, tiền lương đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận).

- Kinh phí hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương, đặc biệt là ở cấp huyện chủ yếu vẫn do ngân sách nhà nước cấp, tỷ lệ đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên còn thấp (ở Trung ương là 14,2% và ở cấp tỉnh là 4,5%).

VII. CÁC GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN

1. Kết quả đạt được:

a) Đã thực hiện nhiều giải pháp từ nhiều nguồn khác nhau thay cho chỉ có một nguồn từ ngân sách Trung ương như trước đây để thực hiện cải cách tiền lương, cụ thể là:

- Tiết kiệm 10% chi ngân sách thường xuyên (trừ tiền lương và các khoản có tính chất lương): áp dụng đối với tất cả các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc các Bộ, cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Giải pháp này góp phần đẩy mạnh thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và sử dụng kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu để cải cách tiền lương, đẩy mạnh triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đã phát huy được tác dụng tích cực, tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương ngay tại đơn vị.

- Sử dụng một phần nguồn thu của các cơ quan hành chính: Các cơ quan hành chính có thu sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ.

- Sử dụng một phần nguồn thu sự nghiệp: Các đơn vị sự nghiệp có thu, sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ; riêng các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành y tế sử dụng tối thiểu 35% số thu để lại theo chế độ (sau khi trừ chi phí thuốc, máu, dịch truyền, hoá chất, vật tư tiêu hao, vật tư thay thế).

- Sử dụng 50% số tăng thu ngân sách địa phương.

- Số nguồn kinh phí còn thiếu do ngân sách trung ương bảo đảm.

b) Việc bảo đảm kinh phí thực hiện cải cách tiền lương và cơ chế dành nguồn thực hiện cải cách tiền lương của các Bộ, cơ quan Trung ương và các địa phương được thực hiện kịp thời; các cơ quan, đơn vị chi trả tiền lương mới tăng thêm cho người lao động theo đúng quy định.

c) Đã có 20 tỉnh, thành phố tự bảo đảm nguồn kinh phí thực hiện điều chỉnh tiền lương năm 2011, ngân sách Trung ương không phải bổ sung, gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Bình Thuận, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ, Tiền Giang, Cà Mau.

2. Hạn chế:

a) Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt dự kiến ảnh hưởng lớn đến thu cân đối ngân sách nhà nước.

b) Chi ngân sách nhà nước tăng nhanh hơn dự kiến, nhất là chi để thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

c) Khả năng huy động các nguồn lực khác để cân đối chi ngân sách nhà nước, từ đó dành nguồn cho cải cách tiền lương còn hạn chế.

d) Việc đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của khu vực sự nghiệp công lập không đạt mục tiêu, tiến độ đề ra.

đ) Giải pháp tiết kiệm 10% chi thường xuyên và sử dụng một phần nguồn thu được để lại theo chế độ, sử dụng 50% tăng thu ngân sách địa phương để chi tiền lương áp dụng đối với tất cả các cơ quan, đơn vị còn bất hợp lý, cụ thể: Do định mức chi cho một số lĩnh vực (như sự nghiệp kinh tế,...) còn thấp nên không đáp ứng được nhu cầu chi thực tế cho công việc chuyên môn; nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị còn dư nguồn thực hiện cải cách tiền lương nhưng không được sử dụng để chi lương cao hơn cho cán bộ, công chức, viên chức hoặc sử dụng vào mục đích khác mà phải chuyển số dư sang năm sau,...

VIII. HẬU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG THẤP VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG

1. Hậu quả của chính sách tiền lương thấp:

Việc cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội từ năm 2003 đến nay đã từng bước triển khai toàn diện các nội dung, gồm: Tiền lương tối thiểu; quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa; hệ thống thang lương, bảng lương và các chế độ phụ cấp; cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Tuy nhiên, kết quả thực hiện chưa đạt được các mục tiêu đề ra theo các Nghị quyết của Đảng và Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 như: Cán bộ, công chức chưa đủ sống bằng tiền lương, chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ, công chức, người lao động tận tâm, gắn bó với công việc, chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, quá trình đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công còn nhiều bất cập và yếu kém (việc triển khai ở nhiều lĩnh vực còn chậm, còn nặng về tư duy bao cấp, chưa chủ động huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và của xã hội để phát triển các dịch vụ sự nghiệp công, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công lập còn bất cập)…

Nhiều ý kiến cho rằng chính sách tiền lương hiện hành tồn tại nhiều bất hợp lý và kéo dài, đã gây ra một số hậu quả đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức như sau:

- Không thu hút được người tài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước hoặc có người tài nhưng họ chưa toàn tâm, toàn ý tập trung vào thực thi nhiệm vụ công vụ, dẫn đến tình trạng chất lượng của việc xây dựng hệ thống thể chế (kinh tế, hành chính, tư pháp…) và các quyết sách về chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội có phần bị hạn chế. Chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật chưa tốt, chưa thực sự phục vụ cho người dân và doanh nghiệp, có những văn bản quy phạm pháp luật phải sửa đổi, bổ sung ngay sau khi ban hành một thời gian ngắn,…

- Chưa góp phần xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức đủ tài, đủ tầm thực hiện công vụ trong điều kiện mới, cụ thể: Một số người đã từ bỏ làm việc trong bộ máy nhà nước do chính sách đãi ngộ của Nhà nước không đủ giữ, thu hút họ ở lại.

Thực tế là vẫn có người muốn vào làm việc trong bộ máy nhà nước, trong đó có người thiện chí mong muốn đóng góp cho công việc chung của đất nước, có người yếu kém về năng lực không thể tìm được việc làm ở khu vực doanh nghiệp, có nhiều người là phụ nữ cần có việc làm ổn định và có nhiều thời gian cho gia đình, con cái, cũng có những người vào trong bộ máy nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng để có điều kiện tiến thân theo con đường quan chức, tham nhũng, làm giàu bất chính,…

- Không duy trì nghiêm được tính kỷ luật, thứ bậc và không tạo được tính cạnh tranh trong đội ngũ cán bộ, công chức, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước: Công chức không chấp hành đúng quy định thời gian làm việc 8 giờ tại công sở diễn ra phổ biến ở tất cả các cấp, các ngành; do thu nhập thấp, cán bộ, công chức tùy theo năng lực, sở trường, chuyên môn, nghiệp vụ của mình mà tìm mọi cách, mọi việc có thể làm để tạo ra thu nhập; cán bộ, công chức không chú trọng đến việc xây dựng thể chế hoặc lợi ích chung mà chỉ muốn làm các công việc cụ thể liên quan đến nhân sự, tài chính, đất đai,...trực tiếp với dân, với doanh nghiệp để có điều kiện nhũng nhiễu, hạch sách, từ đó có thêm thu nhập bảo đảm cuộc sống, dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo xảy ra ngay trong nội bộ đội ngũ cán bộ, công chức, xuất hiện nghịch lý “tiền lương không đủ sống nhưng nhiều người sống đàng hoàng, tiền lương thấp nhưng rất khó được vào biên chế”…

2. Nguyên nhân của những hạn chế trong cải cách chính sách tiền lương:

a) Đã có nhiều Nghị quyết của Đảng về cải cách chính sách tiền lương nhưng việc thể chế hóa và tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng vào cuộc sống vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

b) Do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nên từ năm 2008 đến nay tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP của nước ta đạt thấp hơn dự kiến, chưa bền vững và do những yếu kém nội tại của nền kinh tế nước ta như thâm hụt thương mại lớn, kéo dài, bội chi ngân sách nhiều năm, hiệu quả đầu tư thấp,….đã khiến lạm phát tăng cao hơn nhiều so với dự kiến nên giảm ý nghĩa của việc cải cách tiền lương của Nhà nước, đời sống của người hưởng lương có khó khăn,…

c) Các cấp, các ngành tuy đã nhận thức được hậu quả của chính sách tiền lương thấp nhưng chưa quyết tâm thực hiện theo mục tiêu chung mà chỉ chú ý đến những lợi ích riêng của ngành, địa phương như: chưa chú trọng sắp xếp bộ máy, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động để tinh giản biên chế, thực hành tiết kiệm,…mà lại đề nghị tăng thêm tổ chức, biên chế, tăng thêm chức danh, số lượng cán bộ, công chức và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn,… dẫn đến đối tượng hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách nhà nước ngày một tăng nhưng năng suất, hiệu quả hoạt động công vụ không cao, còn nhiều cán bộ, công chức làm việc kém hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu nhưng vẫn hưởng đủ lương,….

d) Còn nặng về tư duy bao cấp, trông chờ ỷ lại vào ngân sách nhà nước, giải quyết chính sách còn mang tính bình quân, dàn trải, chậm đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, chưa tách được việc giải quyết các chính sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công với chính sách tiền lương.

đ) Việc giải quyết tiền lương và phụ cấp còn mang tính chắp vá, không đồng bộ, được quy định trong các văn bản luật, Nghị định hướng dẫn Luật chuyên ngành và do nhiều cơ quan giải quyết.

Bộ Nội vụ

Lương thấp dễ bị hội chứng 'tước đoạt, bù đắp lương'

  Để thực hiện được mục tiêu tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội, ban soạn thảo đề án cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2012 - 2020 đưa ra 3 phương án đối với lương tối thiểu của cán bộ, công chức.


Căn cứ Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng , kế thừa các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc về cải cách tiền lương nêu tại Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X và trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế của chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức nêu trên, đề xuất định hướng cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2012 – 2020 như sau:

I. BỐI CẢNH:

Trong điều kiện nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới (2011 – 2020) trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới tuy có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; quá trình cấu trúc lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,…giữa các nước ngày càng gay gắt.

Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới đã tạo cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Những năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm, cấu trúc lại nền kinh tế để phát triển nhanh và bền vững; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.

Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Nước ta đã vào khối có thu nhập trung bình (từ 1.000 USD đến dưới 10.000 USD) nhưng nước ta mới đang ở mức đầu tiên, nên vẫn còn nhiều khó khăn. Tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước còn có những yếu kém như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, lạm phát cao, sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả, nợ công…

Theo số liệu của Bộ Tài chính công bố thì tổng dư nợ nước ngoài năm 2010 của Chính phủ và các khoản vay của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh khoảng 32,5 tỷ USD, chiếm 42,2% so với GDP. Theo đó, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay đến năm 2015, mỗi năm chúng ta phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỷ USD và mức trả nợ cao nhất là 2,4 tỷ USD vào năm 2020…

Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động. Ảnh minh họa: Bình Minh

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vào tháng 01/2011 đã tổng kết đánh giá toàn diện tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010, tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, Đại hội XI của Đảng đã quyết định bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020); đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011- 2015), trong đó đã đề ra một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần lãnh đạo, chỉ đạo là “Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay”.

II. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG:

1. Tập trung thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2012 – 2020 đã được Đại hội XI của Đảng thông qua.

2. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

3. Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương và trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị.

4. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cho cán bộ, công chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội để họ gắn bó với bộ máy nhà nước và làm tròn trách nhiệm công vụ của mình, góp phần phòng, chống tham nhũng. Tiền lương của cán bộ, công chức phải hợp lý trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương khu vực thị trường để thu hút và giữ nhân tài làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, theo đó cần xác định hệ số chênh lệch cao hơn giữa tiền lương của cán bộ, công chức so với tiền lương của lao động khu vực thị trường.

5. Cải cách chính sách tiền lương phải trên cơ sở hình thành cơ chế riêng đối với từng khu vực (hành chính, lực lượng vũ trang, sự nghiệp, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công) và thay đổi kết cấu mục lục ngân sách ngân sách nhà nước cho phù hợp, cụ thể như sau:

a) Đối với khu vực hành chính (cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội):

- Tiền lương của cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi quản lý hành chính nhà nước.

- Tập trung đột phá nâng mức lương tối thiểu (thấp nhất) để cán bộ, công chức đủ sống bằng tiền lương.

- Mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa cho phù hợp, trên cơ sở đó ban hành hệ thống bảng lương, ngạch, bậc mới bảo đảm tính hợp lý, phù hợp với thứ bậc trong hệ thống chính trị. Sắp xếp lại các chế độ phụ cấp lương trên cơ sở xem xét đưa một số chế độ phụ cấp lương hiện hành vào mức lương theo quan hệ tiền lương mới cho phù hợp.

- Thực hiện quản lý cán bộ, công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức trên cơ sở xác định rõ vị trí việc làm, biên chế của từng cơ quan, tổ chức, tiến hành đánh giá thực trạng cán bộ, công chức để sắp xếp, bố trí lại cán bộ, công chức cho phù hợp; thực hiện khoán quỹ tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đến đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức.

b) Đối với lực lượng vũ trang:

- Tiền lương của lực lượng vũ trang do ngân sách bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho quốc phòng, an ninh.

- Giữ tương quan tiền lương giữa lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay.

c) Đối với khu vực sự nghiệp dịch vụ công:

- Tiền lương của công chức, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công do quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công bảo đảm và được tính trong chi ngân sách nhà nước cho ngành (giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao, du lịch, kinh tế,....).

- Đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; đơn vị sự nghiệp thực hiện hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận), trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm; nguồn do đối tượng thụ hưởng chi trả).

- Nhà nước chỉ quy định bảng lương áp dụng chung đối với viên chức ở tất cả các ngành sự nghiệp có mức lương tương đương với bảng lương công chức chuyên môn, nghiệp vụ để làm căn cứ cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, tính đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ theo chế độ. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp theo quy định của Luật Viên chức và phụ thuộc vào nguồn thu của đơn vị.

d) Đối với khu vực sản xuất kinh doanh:

Tiền lương đối với người lao động trong khu vực doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế riêng. Việc xây dựng mức lương tối thiểu của khu vực doanh nghiệp phải theo nguyên tắc bảo đảm đời sống tối thiểu của người lao động, có quy định chặt chẽ để doanh nghiệp trả lương cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu, gắn với việc đóng và hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định.

đ) Đối với lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công:

Thực hiện điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công độc lập với tiền lương của người tại chức và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và đãi ngộ người có công.

Lương hưu của người nghỉ hưu từ ngày 01/01/1995 do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm.

Lương hưu đối với người nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 và trợ cấp ưu đãi người có công do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho an sinh và phúc lợi xã hội.

III. ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI:

1.Về mức lương tối thiểu (thấp nhất):

Cán bộ, công chức là một bộ phận của thị trường lao động. Mặt khác, lao động của cán bộ, công chức có những yếu tố đòi hỏi tiền lương phải cao hơn mặt bằng chung trong xã hội như cán bộ, công chức phải chủ yếu sống bằng tiền lương, trình độ đào tạo của cán bộ, công chức cao hơn so với đội ngũ lao động nói chung trong xã hội và đòi hỏi trách nhiệm cao trong hoạt động công vụ, đồng thời cán bộ, công chức bị điều chỉnh bởi nhiều quy định không được làm để có thu nhập thêm như các loại lao động khác trong xã hội.

Cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan Đảng, Nhà nước là cơ quan quyền lực chi phối toàn bộ hoạt động xã hội từ xây dựng, ban hành thể chế đến tổ chức kiểm tra việc thực hiện. Tuy tiền lương của cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước bảo đảm nhưng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì tiền lương của cán bộ, công chức phải đặt trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương, thu nhập của khu vực thị trường.

Nếu không thỏa mãn tốt quan hệ này mà tiền lương của cán bộ, công chức quá thấp sẽ dẫn đến hội chứng “tước đoạt để bù đắp tiền lương” trong thực thi công vụ (tiêu cực, tham nhũng), can thiệp hành chính vào thị trường của các nhóm lợi ích để “đòi chia sẻ lợi ích”, làm lũng đoạn, méo mó thị trường và tăng dòng chuyển dịch lao động từ khu vực nhà nước ra khu vực thị trường, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn.

Để thực hiện được mục tiêu “Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội” nêu tại Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X và thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đề nghị thực hiện mức lương tối thiểu (thấp nhất) đối với cán bộ, công chức theo 3 phương án như sau:

a) Phương án 1: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức trên cơ sở bảo đảm nhu cầu tối thiểu (có tính đủ tiền nhà trong tiền lương) ở vùng có thị trường lao động phát triển nhất (vùng có mức lương tối thiểu cao nhất của khu vực doanh nghiệp).

Ưu điểm: Cán bộ, công chức sống được bằng tiền lương, tận tâm, gắn bó với công việc, tiền lương cao sẽ tạo ra động lực, tính cạnh tranh trong đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó thực hiện tốt cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, có điều kiện sắp xếp, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, thu hút được người giỏi vào làm cán bộ, công chức, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

Nhược điểm: Tiền lương của cán bộ, công chức ở các vùng nông thôn sẽ cao hơn nhiều so với lao động trên cùng địa bàn, đặc biệt mức thu nhập của người dân ở những vùng khó khăn, huyện nghèo còn rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước.

b) Phương án 2: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức bằng mức bình quân của các mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp, đồng thời áp dụng hệ số tăng thêm đối với cán bộ, công chức ở những vùng có thị trường lao động phát triển để mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức cao hơn mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp trên cùng địa bàn, bảo đảm tính cạnh tranh của tiền lương công chức nhằm thu hút người có tài năng vào làm việc trong bộ máy nhà nước.

Ưu điểm: Tiền lương của cán bộ, công chức được bảo đảm bằng mức trung bình khá của lao động trên cùng địa bàn, góp phần củng cố và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

Nhược điểm: Phải quy định hệ số tăng thêm đối với những vùng có thị trường lao động phát triển, ảnh hưởng đến việc thu hút cán bộ, công chức đến công tác ở vùng khó khăn.

c) Phương án 3: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức trên cơ sở mức thu nhập và mức chi tiêu bình quân đầu người của cả nước do Tổng cục Thống kê công bố.

Ưu điểm: Phương pháp xác định mức lương tối thiểu của công chức độc lập với phương pháp xác định mức lương tối thiểu khu vực doanh nghiệp; bảo đảm công chức có mức lương đủ sống.

Nhược điểm: Số liệu công bố về thu nhập bình quân do Tổng cục Thống kê công bố 2 năm/lần và thường công bố sau, nên có khó khăn trong việc đề xuất điều chỉnh tiền lương phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Phải có biện pháp quyết liệt về tạo nguồn thì mới thực hiện được.

Sau khi mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức đạt được một trong 3 phương án nêu trên thì việc điều chỉnh mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức được thực hiện trên cơ sở xem xét chỉ số giá tiêu dùng hàng năm, mặt bằng tiền công trên thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước để Chính phủ quyết định bảo đảm tính cạnh tranh của tiền lương công chức.

2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa:

Theo tính toán của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trên cơ sở phương pháp xác định tiền lương của khu vực hành chính dựa trên hệ thống nhu cầu của người lao động và độ phức tạp lao động của từng chức danh, có tính đến tương quan so sánh với tiền lương trong khu vực thị trường để tăng cường tính cạnh tranh của hệ thống tiền lương nhằm giữ và thu hút người có chuyên môn kỹ thuật cao vào làm cán bộ, công chức và tham khảo kinh nghiệm quốc tế , dự kiến 2 phương án như sau:

a) Phương án 1: Quan hệ tiền lương tối thiểu (nhân viên phục vụ bậc 1)- trung bình (chuyên viên bậc 1)- tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) theo cách tiếp cận tương quan với khu vực thị trường là 1 - 3,2 - 15. Tính theo mức lương tối thiểu 830.000 đồng/tháng thì có mức lương thấp nhất - mức lương trung bình - mức lương tối đa tương ứng là 830.000 đồng - 2.656.000 đồng/tháng - 12.450.000 đồng/tháng.

b) Phương án 2: Quan hệ tiền lương tối thiểu (nhân viên phục vụ bậc 1)- trung bình (chuyên viên bậc 1)- tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) theo cách tiếp cận mức độ phức tạp lao động là 1 - 3,5 - 15. Tính theo mức lương tối thiểu 830.000 đồng/tháng (mức thấp nhất của khu vực doanh nghiệp) thì có mức lương thấp nhất - mức lương trung bình - mức lương tối đa tương ứng là 830.000 đồng - 2.905.000 đồng/tháng - 12.450.000 đồng/tháng.

Đối với các chế độ ngoài lương phục vụ hoạt động công vụ (tiền điện thoại, phụ cấp phục vụ, chế độ xe ô tô đưa đón công tác): Đây là các chế độ phục vụ cho hoạt động công vụ, đề nghị không đưa vào mức tiền lương cơ bản mà tiếp tục hoàn thiện các định mức và cơ chế khoán để sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm được kinh phí quản lý hành chính.

3. Về hệ thống thang lương, bảng lương:

Trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, nghiên cứu thiết kế hệ thống bảng lương mới đối với cán bộ, công chức như sau:

a) Đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo:

Nghiên cứu thiết kế bảng lương đối với cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức và tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị; đồng thời xem xét tương quan tiền lương giữa các vị trí chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình mới. Dự kiến thiết kế bảng lương đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo theo 2 phương án như sau:

- Phương án 1: Thiết kế bảng lương chức vụ đối với các chức danh lãnh đạo từ bộ trưởng và tương đương trở lên và cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo. Các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo còn lại xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo (như hiện nay). Để phù hợp với quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, quy định các nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau trong hệ thống chính trị ứng với một ngạch trong bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ.

Ưu điểm: Không làm xáo trộn hệ thống thang, bảng lương hiện hành, giữ được ổn định khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới. Thuận lợi cho việc xếp lương khi điều động, luân chuyển hoặc khi thôi giữ chức danh cán bộ, lãnh đạo.

Nhược điểm: Ngoài hệ thống phụ cấp chức vụ lãnh đạo, còn phải quy định thêm các ngạch công chức chuẩn (sàn) ứng với từng nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị.

- Phương án 2: Thiết kế 1 bảng lương chức vụ áp dụng chung đối với tất cả các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã. Mỗi chức danh thiết kế 1 mức lương chức vụ. Nếu đảm nhiệm chức danh từ nhiệm kỳ thứ hai thì cứ đủ 5 năm (60 tháng) được hưởng thêm 5% mức lương hiện hưởng. Khi thôi giữ chức danh cán bộ hoặc thôi giữ chức danh lãnh đạo để làm công chức chuyên môn, nghiệp vụ thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức đã được xếp trước trước khi xếp lương chức vụ, thời gian xếp lương chức vụ được tính để xếp lên bậc lương cao hơn trong ngạch được bổ nhiệm.

Ưu điểm: Tiền lương được gắn với vị trí chức danh (giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương như nhau). Tương quan tiền lương thể hiện rõ thứ bậc trong hệ thống chính trị.

Nhược điểm: Làm xáo trộn tương quan tiền lương hiện hành trong đội ngũ cán bộ, công chức. Công chức chuyên môn, nghiệp vụ đang hưởng mức lương ngạch, bậc thấp được bầu cử hoặc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo có thể tăng đột biến về tiền lương, tương ứng bằng nhiều bậc lương chuyên môn, nghiệp vụ, không khuyến khích cán bộ công chức phát triển theo con đường chuyên môn, nghiệp vụ. Khó khăn cho việc xếp lương khi điều động, luân chuyển cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị hoặc khi thôi giữ chức danh lãnh đạo.

b) Đối với công chức chuyên môn, nghiệp vụ (không giữ chức danh lãnh đạo):

Kế thừa nguyên tắc thiết kế tiền lương của chế độ tiền lương hiện hành (công chức chuyên môn, nghiệp vụ ở các ngành, nghề áp dụng chung một bảng lương; các điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi ngành, nghề thực hiện bằng phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm theo nghề). Trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, nghiên cứu thiết kế hệ thống bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo 2 phương án như sau:

- Phương án 1:

Giữ nguyên tắc thiết kế bảng lương như chế độ tiền lương hiện hành (mỗi ngạch có một số bậc lương thâm niên) nhưng hoàn thiện theo hướng thu gọn các nhóm có cùng mức độ phức tạp công việc trong từng loại công chức của bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng chung đối với cán bộ, công chức làm việc trong các lĩnh vực hành chính (Đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội), tòa án, kiểm sát, tư pháp. Đồng thời, đổi tên loại công chức cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức. Cụ thể là:

Ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương: đổi tên loại A3 thành loại A; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 6 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 hiện nay).

Ngạch chuyên viên chính và tương đương: đổi tên loại A2 thành loại B; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 8 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 hiện nay).

Ngạch chuyên viên và tương đương: đổi tên loại A1 thành loại C1 có 9 bậc.

Ngạch cao đẳng: đổi tên loại A0 thành loại C2, có 10 bậc.

Ngạch nhân viên: đổi tên loại B và loại C thành loại D, trong đó có 2 nhóm, gồm: Nhóm D1 (loại B cũ); Nhóm D2 (gộp nhóm C1, nhóm C2 và nhóm C3 cũ).

Thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn như hiện hành.

Ưu điểm: Không làm xáo trộn hệ thống bảng lương hiện hành, giữ được ổn định khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới.

Nhược điểm: Do chỉ có một số bậc lương theo thâm niên nên phải tiếp tục duy trì chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung. Phụ cấp này được dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội và được tính để xếp vào hệ số lương khi nâng ngạch nên thực chất là bậc lương kéo dài nhưng không được xét hưởng trước thời hạn như chế độ nâng bậc lương.

- Phương án 2:

Thiết kế bảng lương mới theo nguyên tắc mỗi ngạch công chức chỉ có một mức lương. Theo đó, bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung.

Ưu điểm: Đơn giản, dễ thực hiện, bỏ bớt được chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung và bảo đảm được quyền lợi của công chức mà không bị quy định quá nhiều bậc lương, không bị hiểu nhầm là có “bậc treo”. Đồng thời thể hiện rõ được quy định tiền lương theo mỗi vị trí việc làm.

Nhược điểm: Cần phải thay đổi một số quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức gắn với ngạch, bậc lương (như chế độ khám chữa bệnh,...). Việc hướng dẫn chuyển xếp lương cũ sang lương mới phức tạp hơn phương án 1.
Khi ban hành hệ thống thang, bảng lương mới trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa và khi điều chỉnh các mức lương trong hệ thống thang, bảng lương thông qua tăng mức lương tối thiểu cần quy định cả bằng hệ số và bằng mức tiền (bằng mức lương tối thiểu nhân với hệ số lương) để phản ánh đúng chức năng của tiền lương.

4. Về các chế độ phụ cấp:

a) Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện các chế độ phụ cấp sau:

- Nâng mức phụ cấp chức vụ lãnh đạo khi mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa (nếu thực hiện phương án thiết kế xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo).

- Sửa đổi chế độ phụ cấp kiêm nhiệm để cán bộ, công chức (gồm cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo và công chức không giữ chức vụ lãnh đạo) nếu kiêm thêm công việc mà giảm được biên chế đều được hưởng một mức phụ cấp 20% mức lương hiện hưởng.

- Hoàn thiện các địa bàn, đối tượng hưởng các chế độ: phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm ở vùng đặc biệt khó khăn, phụ cấp lưu động, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp thâm niên nghề cho phù hợp với tình hình thực tế.

- Giảm mức phụ cấp ưu đãi theo nghề, trách nhiệm theo nghề cao nhất từ 70% hiện nay xuống 30% (do mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa và mức lương cơ bản đã được thiết kế trên cơ sở tính toán nhu cầu của người lao động), chỉ áp dụng đối với một số ít ngành, nghề có điều kiện lao động cao hơn bình thường hoặc thật sự cần thiết phải có ưu đãi của Nhà nước. Trên cơ sở đó, nghiên cứu bãi bỏ chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với một số đối tượng để bảo đảm tương quan chung sau khi đã mở rộng quan hệ tiền lương.

b) Tiếp tục thực hiện điều chỉnh tăng hằng năm chế độ phụ cấp công vụ cho đến khi đạt mức 50% để thể hiện rõ ưu đãi của nhà nước đối với cán bộ, công chức nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang; giúp thu hút người làm việc có chất lượng trong các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị.

c) Bổ sung chế độ phụ cấp theo phân loại đơn vị hành chính áp dụng đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, gồm 3 mức: 5%, 10% và 15% mức lương hiện hưởng (thay cho việc quy định mức phụ cấp chức vụ khác nhau theo phân loại đô thị hiện nay).

d) Bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung nếu thực hiện thiết kế bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức theo phương án mỗi ngạch (chức danh) chỉ có một mức lương.

5. Về chế độ nâng bậc lương, nâng ngạch:

a) Tiếp tục thực hiện chế độ nâng lương thường xuyên.

- Trường hợp thiết kế bảng lương theo phương án 1 như hiện nay (có một số bậc lương trong ngạch): Cứ sau mỗi khoảng thời gian xếp lương ở ngạch (3 năm đối với loại A, loại B, loại C và 2 năm đối với loại D) và hoàn thành nhiệm vụ được giao thì được nâng 1 bậc lương.

- Trường hợp thiết kế bảng lương theo phương án 2 (mỗi ngạch chỉ có một mức lương): Cứ sau mỗi khoảng thời gian xếp lương ở ngạch (3 năm đối với loại A, loại B, loại C và 2 năm đối với loại D) và hoàn thành nhiệm vụ được giao thì được hưởng thêm 5% mức lương hiện hưởng.

b) Sửa đổi thời gian được nâng lương trước thời hạn (12 tháng) khi có thông báo nghỉ hưu.

c) Nâng tỷ lệ từ 5% lên 10% cán bộ, công chức, viên chức được nâng lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ để tạo điều kiện cho nhiều công chức chuyên môn, nghiệp vụ có thành tích, có tài năng được thụ hưởng chính sách này.

d) Quy định rõ trong thời gian cán bộ, công chức nữ mang thai và nghỉ thai sản theo pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội được tính là thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cộng với thành tích trong thời gian giữ bậc còn lại để ưu tiên xét nâng bậc lương trước thời hạn do đạt thành tích xuất sắc.

đ) Đẩy nhanh việc thi nâng ngạch cạnh tranh gắn với vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, sắp xếp bố trí công việc phù hợp với ngạch công chức.

6. Cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập:

a) Đẩy mạnh việc thực hiện các quy định của Luật Cán bộ, công chức để từng bước thực hiện quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Trên cơ sở xác định rõ vị trí việc làm, biên chế của từng cơ quan, tổ chức, tiến hành đánh giá thực trạng cán bộ, công chức để từng bước sắp xếp, bố trí lại cán bộ, công chức cho phù hợp. Để khuyến khích các cơ quan, tổ chức tiết kiệm biên chế, nâng cao thu nhập, đề nghị thực hiện khoán quỹ tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đến đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức.

b) Gắn cải cách tiền lương với cải cách hành chính, xác định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước của từng cơ quan, đơn vị, từng lĩnh vực quản lý.

c) Do mức lương đối với cán bộ, công chức nói chung đã được tính toán bảo đảm nhu cầu và để bảo đảm tương quan chung về tiền lương trong đội ngũ cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đề nghị:

- Để bảo đảm tính thống nhất và tương quan tiền lương của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, đề nghị bãi bỏ các quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý tài chính và biên chế đối với các cơ quan: kho bạc, thuế, hải quan, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban chứng khoán, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hoặc giảm dần mức tiền lương cao hơn của cán bộ, công chức thuộc các cơ quan nêu trên tương ứng với mức tăng lương theo lộ trình (tương tự như đã làm đối với các doanh nghiệp nhà nước).

- Để cán bộ, công chức coi trọng công việc chính đảm nhiệm, minh bạch trong hoạt động công vụ và thu nhập của cán bộ, công chức, giảm các công việc (thời gian, biên chế) dành cho việc quyết toán (chứng từ) chi tiêu ngân sách nhà nước, đề nghị nghiêm cấm (bãi bỏ) các khoản chi ngoài lương có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công chức, như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng cho người chủ trì hoặc tham gia đóng góp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề tài, thù lao báo cáo viên hoặc giảng viên kiêm nhiệm, tiền hỗ trợ ăn trưa,...

IV. ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

1. Mức lương tối thiểu (thấp nhất) của công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập bằng mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức trong cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.

2. Quy định 1 bảng lương áp dụng chung đối với công chức, viên chức ở tất cả các ngành sự nghiệp có mức lương tương đương với bảng lương công chức chuyên môn, nghiệp vụ và được áp dụng các chế độ phụ cấp lương như đối với cán bộ, công chức để làm căn cứ cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, tính đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ theo chế độ. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp theo quy định của Luật Viên chức và phụ thuộc vào nguồn thu (từ ngân sách cấp và từ xã hội hóa), kết quả hoạt động và do đơn vị sự nghiệp quyết định theo nguyên tắc đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) theo Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X.

3. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp:

a) Đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; đơn vị sự nghiệp thực hiện hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận), trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm; nguồn do đối tượng thụ hưởng chi trả) nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý để xác định mức độ, bước đi phù hợp. Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị công lập đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính và thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ. Chuyển đổi cơ chế cấp phát kinh phí sang hình thức đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ để các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về chi phí thường xuyên. Đi đôi với đổi mới cơ chế, tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo sử dụng các dịch vụ này. Thực hiện minh bạch hóa trong các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công; khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn; đổi mới cơ chế phân phối theo hướng vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động vừa có tích lũy để tái đầu tư tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị sự nghiệp công.

b) Phân loại các đơn vị sự nghiệp để có cơ chế quản lý đối với từng loại theo quy định của Luật Viên chức, gồm:

- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự;

- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.

V. CÁC GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN

1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp thu ngân sách nhà nước để bảo đảm nguồn thu ngân sách hàng năm; đồng thời tăng cường quản lý giá cả, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối vĩ mô của kinh tế.

2. Bố trí cân đối chi ngân sách nhà nước theo hướng xác định tỷ trọng chi đầu tư phát triển hợp lý trong tổng chi ngân sách nhà nước để dành nguồn cho chi cải cách tiền lương và các nhiệm vụ an sinh xã hội đã ban hành.

3. Thực hiện rà soát tổng thể các nhiệm vụ đã ban hành trong thời gian qua, các nhiệm vụ nào đã hoàn thành mục tiêu thì dừng bố trí kinh phí; đối với các nhiệm vụ cần tiếp tục ban hành thì phải xem xét lồng ghép, đảm bảo nâng cao hiệu quả, tránh lãng phí; đối với các nhiệm vụ mới dự kiến ban hành, cần tính toán kỹ để đảm bảo đủ nguồn lực thực hiện, đảm bảo cân đối và an ninh tài chính quốc gia.

4. Đẩy nhanh lộ trình xã hội hóa các loại hình sự nghiệp, nhất là y tế, giáo dục với mức độ cao hơn để tiến tới các đơn vị sự nghiệp tự lo trang trải tiền lương và một phần chi phí hoạt động.

5. Phân cấp cho chính quyền địa phương về sử dụng biên chế gắn với ngân sách trả lương đối với cán bộ, công chức trên địa bàn theo hướng địa phương có nguồn thu, kinh tế phát triển thì được chi trả tiền lương tăng thêm không quá 50% so với chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.