Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Điểm danh thách thức 2013

 Năm 2013 là một trong những năm quyết định lòng tin của thị trường và của thế giới vào cải cách thể chế của Việt Nam.
Tướng Nguyễn Quốc Thước: Năm 2013 sẽ có nhiều thách thức đối với đất nước liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng. bên trong là nền kinh tế chưa vượt qua suy thoái, khủng hoảng; bên ngoài là những thế lực đang muốn bành trướng đe dọa đến chủ quyền nước ta, cụ thể là vấn đề Biển Đông.
Đối mặt với những thách thức này Đảng phải hết sức đồng lòng, gần gũi với nhân dân. Nếu trong nội bộ Đảng và quan hệ của Đảng với nhân dân có vấn đề thì tác động từ bên ngoài sẽ đến rất nhanh. Liên Xô sụp đổ là do nội bộ Đảng suy thoái, nhân dân mất niềm tin vào Đảng… Hiện nay Nghị quyết 4 như Hội nghị TW 6 phổ biến là chưa đạt yêu cầu.
Thay đổi mô hình chống tham nhũng là dấu hiệu tích cực, tránh tình trạng vừa đá bóng, vừa thổi còi hiện nay. Bởi như lãnh đạo ta đã xác định, không thể để bộ máy vừa quyền lực vừa giám sát quyền lực cùng một chỗ. Thay đổi là đúng! Nhưng Đảng có tổ chức được một bộ máy có quyền lực thật sự để giám sát tham nhũng lại là việc khác.
Sửa đổi Hiến pháp cũng là vấn đề lớn của năm 2013. Để tăng cường việc giám sát lãnh đạo và quản lý đất nước. Hiến pháp sửa đổi phải đảm bảo tất cả quyền lợi thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.. Không thể để tình trạng một bộ phận không nhỏ quan, dân hư hỏng, mà đảng không nắm được kịp thời. Trên cơ sở điều 4 về đảng lãnh đạo, phải tăng cường vai trò giám sát của nhân dân.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, theo tôi, phải được đẩy cao hơn nữa. Trong một nhà nước với cơ chế một đảng như của ta thì vai trò của các tổ chức độc lập là rất quan trọng. Không thể để tình trạng các tổ chức chính trị trở thành cái đuôi để điều hành.
Luật đất đai sửa đổi 2013 trong một nước có 80% dân số làm nông nghiệp như ở ta phải đảm bảo được lợi ích của đại bộ phận người dân. Thu hồi đất của dân để tạo ra sự phát triển công nghiệp là người bị thu hồi được hưởng lợi, không phải ở vài trăm triệu tiền đền bù mà phải trả lợi ích cho người dân. Một nước nông nghiệp đi lên công nghiệp hóa thì phải đảm bảo người nông dân được hưởng thụ sự phát triển đó. Đất đai của toàn dân nhưng hiện nay quyền sở hữu và lợi nhuận từ đất đai lại thuộc về nhóm lợi ích. Không xử lý tốt, quan hệ giữa chính quyền và nhân dân sẽ mất định hướng xã hội chủ nghĩa.
2013: Thách thức lòng tin
TS Nguyễn Minh Phong: Năm 2012 là một trong những năm mà sau này cả thế giới và VN còn tiếp tục nhắc lại nó như là một trong những dấu ấn tối nhất trong những thập kỉ gần đây. Và điều này còn tiếp tục ít nhất trong nửa đầu 2013. Hi vọng đến nửa cuối 2013 sẽ có những dấu hiệu, ánh sáng tốt hơn.

Khó khăn tiếp tục gắn liền với sự suy giảm thị trường tiêu thụ, cùng với nó là những hàng rào kĩ thuật để hạn chế nhập khẩu thị trường trên thế giới. Khó khăn còn gắn liền với nợ công lẫn nợ tư, nợ của doanh nghiệp cũng như nợ của Chính phủ, nợ trong nước cũng như nợ nước ngoài. Nợ là một trong những căn bệnh mãn tính bao phủ toàn cầu, treo lơ lửng trên đầu của mỗi Chính phủ, mỗi doanh nghiệp. Không loại trừ bất kì một quốc gia nào, kể cả những nước phát triển như Mỹ, cũng như các nhà băng, ngân hàng có vài ba trăm năm lịch sử.
Một điểm nữa là gắn liền với áp lực, cũng là từ đó đẻ ra các chính sách an sinh xã hội với quy mô thất nghiệp khổng lồ. Từ khủng hoảng kinh tế chuyển sang bất ổn về xã hội, từ bất ổn xã hội chuyển sang bất ổn về chính trị, đòi hỏi phía Chính phủ phải thay đổi nhanh hơn, chịu trách nhiệm khi mắc khuyết điểm và cũng thấy khó khăn hơn trong việc tìm lối thoát.
Năm 2013 là một trong những năm quyết định lòng tin của thị trường và của thế giới vào cải cách thể chế của Việt Nam.
Việc bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh do Quốc hội bầu vào tháng 5/2013 mà không thành công thì chắc chắn lòng tin sẽ nổi lên như một trong những khó khăn lớn nhất để phục hồi và phát triển kinh tế kể cả trong nước cũng như đối ngoại của Việt Nam.
Giáo dục: Đổi tư duy
Giáo sư Vũ Đức Vượng (GĐ chương trình Giáo dục Tổng quát, ĐH Hoa Sen, tp.HCM): Về giáo dục Việt Nam, tôi nghĩ nhận xét của tôi cũng không thể nào sâu sắc hơn phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm 14/12: “Nền kinh tế đang thiếu cả thầy cả thợ chứ không phải thừa thầy thiếu thợ. …  nếu tính số sinh viên trên 1 vạn dân thì năm 2011 Việt Nam mới có 250 sinh viên từ cao đẳng trở lên, trong khi tỷ lệ của Thái Lan từ năm 2005 là 374, Hàn Quốc 674, Nhật Bản 316, Pháp 359, Anh 380, Úc 504, Hungary 432, Chile 407...”
Chỉ tiếc là Việt Nam ta đã mất một cơ hội hiếm có, từ khi thống nhất đất nước, để cải thiện giáo dục của ta cho con em ta bắt kịp thế giới.
Những con số Thủ tướng vừa đưa ra đã nói rõ là nước ta đã đánh mất 37 năm sau chiến tranh, và ngày nay giáo dục cho con em chúng ta đang tụt hậu nghiêm trọng.
Cũng trong thời gian 37 năm tương tự, từ 1868 đến 1905, triều đại Minh Trị đã đưa nước Nhật từ một nước lạc hậu không khác gì Việt Nam và Trung quốc ở thế kỷ XIX thành một nước đủ mạnh để đánh bại hải quân Nga, rồi sau đó trở nên một cường quốc ngang hàng với Âu châu và Mỹ châu, về cả kinh tế lẫn quân sự.
Nhiều điểm phải sửa ngay trong hệ thống giáo dục Việt Nam: như cải thiện chính sách, vị thế người thầy; kiến trúc lại hệ thống giáo dục phổ thông; chấm dứt bệnh thành tích; thay đổi hệ thống, cách làm sách giáo khoa, v.v… Và một điểm quan trọng là tham nhũng.
Tuy nhiên, điều này cũng chưa đủ.  Khác với các lĩnh vực công nghệ, xây dựng hoặc canh nông… căn bản của giáo dục là tư duy.  Từ hơn 2,000 năm nay, chúng ta đã bắt chước hoàn toàn lối học từ chương của Trung quốc, và làm hỏng hết trí sáng tạo, tư duy độc lập và cái văn hóa bình đẳng giới của người Việt từ xa xưa. Trong khi đó, chỉ từ năm thế kỷ vừa qua, người phương Tây đã liên tục phát minh những sáng tạo mới về mọi ngành và dựa vào đó, họ đã thống trị hầu như khắp mặt đất.
 Căn bệnh trầm kha
Chỉ mới cách đây một thập niên, Việt Nam vẫn còn được xem là một trong những nền kinh tế năng động nhất châu Á, một “con rồng” tương lai của khu vực, với mức tăng truởng ngoạn mục. Nhưng nay, chu kỳ tăng trưởng cao đã chấm dứt, kinh tế Việt Nam đang lâm vào bế tắc và đó không phải chỉ do tác động của khủng hoảng toàn cầu, mà chủ yếu là những yếu kém về cơ cấu. Mặc dù những triệu chứng đã được xác định, nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa tìm ra thuốc chữa cho căn bệnh trầm kha của nền kinh tế.
Theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố ngày 24/12/2012, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam trong năm 2012 chỉ tăng 5,03%, mức thấp nhất kể từ 13 năm qua, tức là kể từ năm 1999 (4,77% ).
Kinh tế của Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do mức tín dụng sụt giảm mạnh trong bối cảnh các ngân hàng đầy nợ xấu và thiếu vốn, trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước, được giao đóng vai trò chủ đạo, vẫn hoạt động kém hiệu quả, do nạn tham nhũng và quản lý kém cỏi.
Nếu không nhờ mức xuất khẩu cao, GDP của Việt Nam trong năm nay lẽ ra còn thấp hơn nữa. Lần đầu tiên từ năm 1992, thương mại của Việt Nam năm 2012 được thặng dư ( 284 triệu đô la, theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố ). Thật ra thì mức thặng dư này có được là do nhập khẩu giảm, hậu quả của hoạt động kinh tế chậm lại và nhu cầu tiêu thụ nội địa kém đi.
Để kích thích tăng trưởng kinh tế, trong năm 2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã 6 lần hạ các lãi suất điều hành, qua đó giúp các công ty vượt qua khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, nhưng không chắc là biện pháp đó đủ để cải thiện tình hình trong ngắn hạn.
Tình hình kinh tế khó khăn kéo theo sự sụt giảm đầu tư ngoại quốc. Theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam công bố ngày 25/12, trong năm 2012, Việt Nam chỉ thu hút tổng cộng 13 tỉ đôla đầu tư ngoại quốc trực tiếp FDI, tức là giảm đến 15,3% so với năm ngoái.
Trong năm 2012, giá địa ốc ở Việt Nam đã sụt giảm 30%. Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam rơi xuống mức thấp nhất trong một năm. Các công ty xếp hạng tín nhiệm như Moody’s hay Standard and Poor’s đã hạ điểm các trái phiếu của Việt Nam xuống hạng « mang tính đầu cơ cao ».
Một hậu quả khác của tình trạng tăng trưởng chậm lại, đó là thất nghiệp tăng cao. Theo một báo cáo do Tổng cục Thống kê đồng thực hiện với Tổ chức Lao động Quốc tế, hiện có gần 1 triệu người thất nghiệp ở Việt Nam, vì nền kinh tế do tăng trưởng quá thấp, đã tạo không đủ công ăn việc làm cho những người mới bước vào thị trường lao động, cũng như cho những người đang mất việc.
Trong hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam vào đầu tháng 12 vừa qua, các nước và các tổ chức cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam đã bày tỏ mối quan ngại về tiến độ quá chậm chạp trong việc thực hiện các kế hoạch tái cơ cấu về đầu tư, về tài chính ngân hàng và về doanh nghiệp Nhà nước. Các đại biểu dự hội nghị cũng thúc giục chính phủ có những hành động quyết đoán trong việc giải quyết nợ xấu, nâng cao quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao tính minh bạch và công bố thông tin trong khu vực quốc doanh.
Trả lời phỏng vấn RFI từ Hà Nội, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, một trong những kinh tế gia hàng đầu của Việt Nam cũng xem minh bạch thông tin là vấn đề lớn của Việt Nam, vì một khi chưa định đúng bệnh, sẽ khó mà tìm ra được các phương thuốc hữu hiệu cho nền kinh tế Việt Nam.
Tỷ lệ phát triển kinh tế Việt Nam trong năm 2012 rơi xuống mức thấp nhất trong 13 năm qua trong bối cảnh các căn bệnh kinh niên của nền kinh tế phát tác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống xã hội. Nhân ngày đầu năm 2013, VOA Việt ngữ đã có cuộc phỏng vấn với kinh tế gia Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương. Trước hết, ông Doanh đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Tăng trưởng kinh tế chỉ đạt có 5,03%, tức là mức thấp nhất từ năm 1999. Trong năm 2012, đã bùng nổ một cách rầm rộ hàng loạt các căn bệnh của nền kinh tế đã được tích tụ từ lâu trước đó, thí dụ như nợ xấu, như sức khỏe của ngân hàng thương mại, rồi thị trường bất động sản đóng băng và khối lượng tín dụng ở trong thị trường bất động sản khoảng 1,1 triệu tỷ. Các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước cũng có một khoản tín dụng là 1,3 triệu tỷ và bây giờ cũng không phải dễ mà trả lại được.

Còn khu vực doanh nghiệp tư nhân thì đã bị xói mòn và suy yếu nhiều sau khi chịu đựng lạm phát từ năm 2008 và đi kèm với lạm phát là lãi suất ngân hàng rất cao, lãi suất tín dụng rất cao, lên tới 20%, 21%. Trong năm 2012, đã có đến 100 nghìn doanh nghiệp bị phá sản. Các cam kết đầu tư mới của các nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm sút rõ rệt.

Có thể nói tình hình kinh tế Việt Nam trong năm 2012 đã bộc lộ những các căn bệnh cần phải cấp bách giải quyết nếu không thì nên kinh tế sẽ lâm vào khó khăn hơn rất nhiều. Và bên cạnh việc các doanh nghiệp đã phá sản hoặc đình chỉ hoạt động thì đương nhiên công ăn việc làm, đã giảm nhiều và thu nhập của người lao động cũng gặp rất nhiều khó khăn.

VOA: Trong bức tranh kinh tế đầy màu xám của năm 2012. Có những điểm tích cực nào không, thưa ông?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Trong năm 2012, chính phủ Việt Nam đã thay đổi ưu tiên của chính sách là không còn ưu tiên tăng trưởng cao mà ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Vì vậy nên chỉ số lạm phát đã giảm xuống 6,81%, so với năm 2011 là gần 19%. Tỷ giá cũng ổn định. Dự trữ ngoại tệ tăng lên.


Tôi nghĩ cần phải có những giải pháp đi vào những nguyên nhân căn bản hơn, giải quyết tận gốc rễ và điều đó bao gồm cả cải cách thể chế, cải cách luật pháp và các quy định của nhà nước cũng như tăng cường công khai minh bạch, tăng cường giám sát...
Xuất khẩu tăng 18,3% và đạt 114,3 tỷ đôla, là ngưỡng cao nhất từ trước tới nay của Việt Nam. Tuy vậy, trong số 18,3% ấy, thì 17,7% là do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đóng góp. Doanh nghiệp trong nước chỉ đóng góp tăng trưởng 0,6% thôi. Vì vậy cho nên giá trị gia tăng còn lại của Việt Nam cũng không cao. Tuy vậy, đó cũng có thể coi là một thành tựu đáng kể.

VOA: Vâng, thưa ông, trên các trang web xã hội năm qua, những từ như kinh tế khó khăn, hay thắt lưng buộc bụng được người sử dụng dùng rất nhiều. Thưa ông, liệu họ có nên hy vọng vào năm 2013 không?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: 2013 thì chính phủ đã thấy vấn đề và hiện nay đã đề ra hàng loạt các chính sách để tái cấu trúc nền kinh tế, để xử lý nợ xấu, để làm tan băng thị trường bất động sản và qua đó cũng có thể là sẽ giải quyết được một bước việc nới rộng tín dụng là làm giảm được tình trạng đóng băng tín dụng, là một căn bệnh làm cho nền kinh tế có thể bị rơi vào trì trệ rất nghiêm trọng.

Mặt khác tôi thấy rằng các biện pháp đề ra mới chỉ là các biện pháp có tính chất tình thế, không giải quyết được những vấn đề nguyên nhân cốt lõi đã dẫn đến những tình trạng đó. Tôi nghĩ rằng cần phải có những giải pháp đi vào những nguyên nhân căn bản hơn, giải quyết đến tận gốc rễ và điều đó bao gồm cả cải cách thể chế, cải cách luật pháp và các quy định của nhà nước cũng như tăng cường công khai minh bạch, tăng cường giám sát.

Kinh tế 2012: Thử thách quá khó

Khó khăn hiển hiện ở mọi ngóc ngách nền kinh tế, khiến hàng chục nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động, cả triệu người thất nghiệp, hàng trăm nghìn tỷ đồng nguy cơ mất trắng khi thị trường bất động sản đóng băng.

Lạm phát thấp nhất trong 3 năm
Ảnh: Anh Quân
Lạm phát thấp một phần cũng do nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng giảm mạnh khi kinh tế khó khăn, thu nhập giảm. Ảnh: Anh Quân
Chỉ số giá tiêu dùng cuối năm tăng 6,81%, hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu Quốc hội đề ra, giảm mạnh so với tốc độ phi mã 18,3% của năm ngoái và thấp nhất kể từ 2009 đến nay. Ngoại trừ những lần tăng giá xăng dầu và điện, người tiêu dùng không phải hứng chịu các cú sốc giá lương thực, thực phẩm. Kết quả này có được chủ yếu nhờ các giải pháp siết tín dụng, hạn chế đầu tư công, hạ nhiệt thị trường bất động sản đưa ra từ năm ngoái.
Nền kinh tế cũng ghi nhận một số tín hiệu tích cực như lần đầu tiên xuất siêu sau 19 năm, tỷ giá cả năm ổn định, dự trữ ngoại hối tăng gấp đôi…

55.000 doanh nghiệp chết


Doanh nghiệp đang trải qua một trong những giai đoạn khó khăn nhất. Ảnh: Aaron Sant
Nhiều dự án dang dở vì thiếu vốn và không có khách là hình ảnh tiêu biểu của thị trường bất động sản Việt Nam 2012. Ảnh: Aaron Sant
Cái giá phải trả cho việc thắt chặt tiền tệ và tài khóa để kiểm soát lạm phát là tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 5,03%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 6-6,5% Quốc hội đề ra. Lần đầu tiên sau gần hai thập kỷ Việt Nam xuất siêu nhưng chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu sụt giảm khi sản xuất đình đốn.
55.000 doanh nghiệp đã giải thể, ngừng hoạt động, khiến cả triệu người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Cộng cả năm 2011, con số này lên đến gần 110.000, bằng nửa số đã ngừng hoạt động kể từ khi đổi mới. Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI) nhận định đây là một trong những giai đoạn đen tối nhất của doanh nghiệp Việt Nam.
Nhiều giải pháp, đặc biệt là về thuế đã được đưa ra nhưng đến cuối năm, tình hình chưa cải thiện nhiều. Tháng 5, Chính phủ ban hành Nghị quyết 13 với gói giải pháp trị giá 29.000 tỷ đồng nhằm giãn thời gian nộp thuế VAT, giảm tiền thuê đất, tái cơ cấu nợ… Cuối tháng 12, Chính phủ tiếp tục công bố gói giải cứu mới trị giá hàng chục nghìn tỷ đồng, trong đó tập trung giảm thuế, phí, hạ lãi suất để giải phóng hàng tồn kho, xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Nợ xấu ngân hàng cao kỷ lục
Ngân hàng và doanh nghiệp đều mắc kẹt vì nợ xấu. Ảnh: Hoàng Lan.
Những khoản nợ khó đòi và có nguy cơ mất trắng chiếm 8,82% dư nợ tín dụng, tương đương gần 240.000 tỷ đồng, cao nhất từ trước tới nay. Đó là hệ lụy tất yếu của tăng trưởng nóng, đầu tư tràn lan, bất động sản bong bóng và hoạt động cho vay còn nhiều sơ hở. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước liên tục đăng đàn trước Quốc hội để giải trình nguyên nhân và đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu, một thứ được ví như cục máu đông gây ngưng trệ dòng tiền trong nền kinh tế và đe dọa hủy hoại hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp.
Phương án lập công ty mua bán nợ xấu đã trình lên Chính phủ, theo hướng mua lại các khoản nợ và xử lý thành tài sản có giá sau thời gian nhất định. Xử lý các ngân hàng yếu kém, bên cạnh mục tiêu dài hạn tái cấu trúc hệ thống, cũng là cách giúp thanh lọc nợ xấu trong ngắn hạn. 5 trong số 9 ngân hàng yếu kém đã cơ bản tái cơ cấu xong, với điểm nhấn là thương vụ sáp nhập dẫn tới sự biến mất của thương hiệu ngân hàng cổ phần lâu đời nhất thủ đô - Habubank. Những ngân hàng khỏe mạnh còn lại phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro, chấm dứt thời kỳ siêu lợi nhuận và đứng trước nguy cơ sa thải hàng loạt nhân sự để tự tái cơ cấu.

Một triệu tỷ đồng đọng trong bất động sản


Dư nợ tín dụng bất động sản đến cuối tháng 8 khoảng 203.000 tỷ đồng, trong đó 6,6% là nợ xấu. Nếu tính cả những khoản vay thế chấp bằng bất động sản, con số này lên đến hơn 1 triệu tỷ đồng, tương đương gần 60% lượng vốn dành cho cả nền kinh tế. Số vốn khổng lồ này nguy cơ bốc hơi theo các dự án nhà đất, khi mãi lực sụt giảm, chủ đầu tư thiếu vốn thi công. Nhiều đơn vị phải tìm cách rút lui khỏi thị trường bằng cách thoái vốn, sang nhượng, hoặc đắp chiếu dự án chờ vận may.
Bất động sản từ chỗ bị siết tín dụng, nay trở thành đối tượng cần quan tâm, giải cứu khi cả nước tồn kho hàng chục nghìn căn hộ và hàng trăm nghìn mét vuông văn phòng cho thuê. Kéo theo đó là cái chết báo trước của hàng loạt nhà thầu, doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Tháng 12, đoàn công tác Chính phủ do Thủ tướng dẫn đầu cùng các Bộ trưởng phải làm việc với TP HCM và Hà Nội để tìm giải pháp xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho bất động sản. Một số đề xuất đang được các bộ ngành cân nhắc như giảm thuế VAT cho người mua nhà, giảm giãn tiền thuê đất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp...

Lãnh đạo một loạt doanh nghiệp bị bắt

Bầu Kiên. Ảnh: Hoàng Hà
Bầu Kiên ngày còn nhiều uy lực trên thị trường tài chính cũng như sân cỏ. Ảnh: Hoàng Hà
Nguyên Chủ tịch Tổng công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines - Dương Chí Dũng bị khởi tố giữa tháng 5, mở đầu cho một loạt vụ án kinh tế quy mô hàng nghìn tỷ đồng được thụ lý trong năm. Ông Dũng bị khởi tố vì cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế, tội danh không khác nhiều đồng nghiệp cũ - nguyên Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy Việt Nam Phạm Thanh Bình. Cuối tháng 8, đến lượt các nguyên lãnh đạo Ngân hàng cổ phần Á Châu (ACB) bị bắt như Nguyễn Đức Kiên, Lý Xuân Hải vì liên quan tới vụ lừa đảo hàng nghìn tỷ đồng của nữ đại gia chứng khoán Huỳnh Thị Huyền Như. Một loạt cựu lãnh đạo của các công ty Chứng khoán SME, Chứng khoán Liên Việt, Chứng khoán Cao su… cũng lần lượt bị bắt và khởi tố.
Nếu như câu chuyện Vinalines bộc lộ lỗ hổng trong quản lý vốn tại các tập đoàn nhà nước thì vụ án bầu Kiên và các đồng phạm lại cho thấy những khuyết tật của thị trường khi thiếu bàn tay kiểm soát. Ông Dũng cùng các đồng phạm góp công làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của Nhà nước qua những quyết định đầu tư tràn lan, mua sắm tài sản không đúng quy định. Thiệt hại trực tiếp do bầu Kiên và các đồng phạm gây ra chỉ vài trăm tỷ đồng, nhưng hậu quả để lại cho thị trường tài chính tiền tệ lớn hơn thế rất nhiều lần. Tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán sau ba phiên bầu Kiên bị bắt giảm hơn 80.000 tỷ đồng.

Thủy điện Sơn La đi vào hoạt động

Thủy điện Sơn La về đích sớm hơn kế hoạch 3 năm. Ảnh: Kiên Trung
Thủy điện Sơn La về đích sớm hơn kế hoạch 3 năm. Ảnh: Kiên Trung
Ngày 23/12, nhà máy Sơn La chính thức hòa lưới quốc gia, sau 37 năm khảo sát, xây dựng với nhiều tranh cãi, lo ngại về tính an toàn của đập thủy điện cũng như ảnh hưởng tới môi sinh. Với vốn đầu tư hơn 60.000 tỷ đồng, Sơn La để lại nhiều dấu ấn kỷ lục về hồ chứa nước lớn nhất, công trình to nhất, hoàn thành kế hoạch sớm nhất. Nhờ vận hành sớm 3 năm so với dự kiến, mỗi năm Sơn La tạo ra doanh thu 500 triệu USD, tiết kiệm hơn 5 triệu tấn than để sản xuất ra lượng điện năng tương đương. Công suất 2.400 MW một năm, công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á cũng được kỳ vọng giúp tránh cảnh thiếu điện trong năm đáp ứng đủ nhu cầu điện 2013.
Chủ đầu tư và một số chuyên gia khẳng định, Sơn La sẽ không lặp lại kịch bản động đất của Sông Tranh 2, bởi đã được đầu tư hệ thống quan trắc từ trước.
Nhà nước độc quyền vàng miếng
Ngân hàng Nhà nước quyết đưa vàng vào khuôn khổ bằng một loạt biện pháp, trong đó tiêu biểu là đưa vàng vào diện độc quyền. Ảnh: AQ
Ngân hàng Nhà nước quyết đưa vàng vào khuôn khổ bằng một loạt biện pháp, trong đó tiêu biểu là độc quyền sản xuất vàng SJC. Các thương hiệu khác vẫn lưu hành nhưng không tiếp tục sản xuất. Ảnh: AQ
Ngày 25/5, Nghị định về Quản lý hoạt động kinh doanh vàng bắt đầu có hiệu lực, đưa thị trường vàng miếng vào tầm kiểm soát. Từ chỗ có trên dưới 10 đơn vị gia công, dập đúc và hàng nghìn điểm kinh doanh tự phát, giờ đây chỉ Ngân hàng Nhà nước mới có quyền sản xuất vàng miếng. SJC trở thành vàng miếng thương hiệu quốc gia do Ngân hàng Nhà nước quản lý, các thương hiệu khác tiếp tục được lưu hành nhưng không sản xuất thêm. Tất cả các cửa hàng nếu muốn tiếp tục kinh doanh vàng miếng phải đăng ký lại với điều kiện khắt khe về năng lực tài chính và quy mô hoạt động.

Một trong những cái được của độc quyền vàng miếng, theo đánh giá của chính Ngân hàng Nhà nước, là biến động giá vàng không còn ảnh hưởng đến tỷ giá, đời sống xã hội. Thị trường cũng được hy vọng sẽ bình yên hơn khi các ngân hàng bị rút quyền huy động và cho vay vốn bằng vàng. Nhưng hệ lụy trước mắt là người dân phải mua vàng đắt hơn thế giới hàng triệu đồng mỗi lượng. Nạn vàng nhái thương hiệu, kém chất lượng cũng theo nhau bùng phát

Nhìn lại bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2012

*Tổng sản phẩm Quốc nội


2012    2011
GDP 136 tỷ đôla   135,4 tỷ   đôla
Tăng trưởng GDP cả năm 5,03% 5,89%
Thu nhập bình quân trên đầu người/năm 1.540 đôla 1.300 đôla



*Thương mại












2012 2011
Xuất khẩu 115 tỷ đôla 96,8 tỷ đôla
Nhập khẩu 115 tỷ đôla 103,7 tỷ đôla
Cán cân thương mại Xuất siêu 284 triệu đôla Nhập siêu 9,8 tỷ đôla



 *Nợ


2012 2011
Nợ công 55,4% GDP 54,9% GDP
Nợ xấu/tổng dư nợ 8,8% - 10% 3,8%

*Chỉ số việc làm

 



2012 2011
Tỷ lệ thất nghiệp độ tuổi lao động 1,99% 2,27%
Tỷ lệ thất nghiệp tại thành thị 3,25% 3,60%
Tỷ lệ thất nghiệp tại nông thôn 1,42% 1,60%

Vĩ mô được cải thiện

Chất lượng kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong năm 2012 đã được cải thiện nhiều so với năm 2011.
Lạm phát giảm đáng kể, giúp chính phủ có cơ sở hạ lãi suất 6 lần trong năm.
Tình trạng thâm hụt ngân sách và tụt giá tiền đồng cũng gần như được chế ngự.
Dự trữ ngoại hối trong năm 2012 đã tăng lên đáng kể so vơí 2011
Lạm phát Biểu đồ lạm phát Việt Nam 2011-2012. Nguồn: Tradingeconomics.com
Tuy nhiên hiện nay quan ngại lớn nhất cho Việt Nam vẫn là sự suy giảm tốc độ tăng trưởng nền kinh tế.
Tăng trưởng GDP năm 2012 của Việt Nam ở mức thấp nhất trong vòng 13 năm qua
Biểu đồ tăng trưởng GDP Việt Nam những năm gần đây. Nguồn: Tradingeconomics.com

Nợ xấu

Ngày 12/7, Ngân hàng Nhà nước công bố nợ xấu đã lên đến 202 nghìn tỷ đôla, bằng 8,6% tổng dư nợ hiện tại, gấp đôi mức 4,47% mà các ngân hàng thương mại đưa ra trong tháng 5. Mặc dù theo tổ chức xếp hạng tín dụng Fitch, con số này có thể còn lớn hơn nhiều.
Con số ngày tiếp tục tăng lên 250 nghìn tỷ trong công bố tháng 11.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Văn Bình nói "với quyết tâm của toàn thể hệ thống chính trị" thì nợ xấu có thể giải quyết hết nợ xấu trong nhiệm kỳtrong phiên thảo luận về kinh tế - xã hội của Quốc hội ngày 30/10.

Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói không hiểu nợ xấu liên quan gì quyết tâm chính trị.
Các ngân hàng quá mạnh tay cho vay trong vòng hơn 1 thập kỷ, đẩy tăng trưởng tín dụng từ 20% những năm 90 lên 136% trong năm 2010, kết hợp với lãi suất cao nhất khu vực năm 2011 được cho là lý do khiến nợ xấu tăng cao, nhất là trong khu vực bất động sản và doanh nghiệp nhà nước. Tăng trưởng tín dụng, CPI, M2 của Việt Nam qua các năm. Nguồn: CEIC
Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng ảnh hưởng mạnh tới khu vực sản xuất của Việt Nam và khả năng chi trả nợ của khu vực này.
Trả lời phỏng vấn với BBC, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành tỏ ra quan ngại về thực trạng nợ xấu trong khối ngân hàng tại Việt Nam



'Thanh lọc' ngành ngân hàng

Ngày 21/8, Bộ Công an Việt Nam tuyên bố thực hiện lệnh bắt giữ đối với ông Nguyễn Đức Kiên, tức Bầu Kiên, người đồng sáng lập ngân hàng ACB vì sai phạm trong quản lý kinh doanh.
Vụ bắt ông Kiên mở đầu cho một loạt các vụ bắt bớ, khởi tố khác đối với các nhân vật tên tuổi trong ngành ngân hàng trong nỗ lực lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên nhiều ý kiến còn cho rằng điều này thể hiện sự đấu đá nội bộ trong Đảng cộng sản bởi quan hệ của các nhân vật này với lãnh đạo trong Đảng. Các lãnh đạo bị khởi tố của ACB từ trái sang phải:
Hàng 1: Nguyễn Đức Kiên, Lý Xuân Hải, Trần Xuân Giá
Hàng 2: Trịnh Kim Quang, Lê Vũ Kỳ, Phạm Trung Cang
Các vụ bắt bớ liên tục tạo tâm lý hoảng hốt trên thị trường chứng khoán, đẩy VNIdex lao xuống dốc với tốc độ chóng mặt. Chỉ trong 3 ngày từ 21-23/8, VNIdex đã 'bốc hơi' 5,62 tỷ đôla.
Trong tháng 8, VNIdex là sàn chứng khoán mất điểm nhiều nhất Châu Á, theo đánh giá của Bloomberg.
Sự trượt dốc của VNIdex còn thể hiện tính liên thông của ngành ngân hàng và chứng khoán, liên thông giữa các ngân hàng với nhau qua sở hữu chéo, cũng như sự phụ thuộc quá lớn vào tâm lý thị trường của chứng khoán Việt Nam. Người dân đổ xô đi rút tiền tại ACB sau sự cố Bầu Kiên
Ngay sau khi sự việc xảy ra, Ngân hàng Nhà nước đã phải bơm hàng nghìn tỷ đồng qua kênh thị trường mở nhằm hỗ trợ thanh khoản cho ACB và các ngân hàng khác.
Trả lời báo trong nước, thống đốc Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Văn Bình cho rằng vì "dân trí, tập quán ở Việt Nam chưa cao như ở một số nước" và vì điều kiện kinh tế chưa cho phép nên chưa thể cho các ngân hàng yếu kém phá sản Thống đốc ngân hàng Nhà nước ông Nguyễn Văn Bình

Bất động sản đóng băng

Năm 2012 là một năm u ám với thị trường bất động sản Các dự án nhà cao cấp ế ẩm vì không có người mua
Cổng thông tin chính phủ ngày 17/12 công bố kết quả khảo sát thị trường, trong đó cho thấy từ năm 2008 đến năm 2012, tỷ lệ đầu tư bất động sản đã giảm từ 80% xuống còn 10% trong khi cùng thời gian trên, tỷ lệ khách hàng có nhu cầu thực lại tăng mạnh từ 20% lên 90% thị trường. Bất động sản trượt giá mạnh trong năm 2012
Theo Bộ Xây dựng, đến 31/10, tổng dư nợ bất động sản khoảng 207.595 tỷ đồng, trong đó 13,5% là nợ xấu, tức 28 nghìn tỷ đồng.
Ngày 12/11, Bộ trưởng xây dựng Trịnh Đình Dũng thông báo hàng tồn kho bất động sản tổng cộng là 40 nghìn tỷ.
Bộ trưởng Bộ xây dựng Trịnh Đình Dũng
Trong tháng 12, chính phủ Việt Nam đã ra hàng loạt quyết định giải cứu thị trường bất động sản qua các buổi họp tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong đó có việc tái cơ cấu thị trường, giảm lãi suất cho vay mua nhà, ưu đãi dự án nhà xã hội, giải quyết nợ xấu và thúc đẩy khu vực xây dựng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc họp tại Hà Nội hôm 19/12

Doanh nghiệp phá sản

Trong tháng 12, Cục quản lý đăng ký kinh doanh thuộc Bộ kế hoạch đầu tư dự báo đến hết năm 2012 sẽ có khoảng 55 nghìn doanh nghiệp giải thể.
Hồi năm 2011, đã có hơn 79 nghìn doanh nghiệp giải thể trong tổng số 622 nghìn doanh nghiệp cả nước.

Habbubank là một trong những thương hiệu lớn bị 'bốc hơi' năm nay
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong sáu tháng đầu năm, lý do giải thể của các doanh nghiệp gồm: lãi suất quá cao (27,2%), lạm phát cao và thất thường (19,5%), khả năng tiếp cận vốn khó (17,4%), chi phí vận tải cao (9,7%), điện cung cấp không ổn định (7%) và chính sách điều tiết kinh tế không ổn định (7%).

Việt Nam 2013?

Kinh tế Việt Nam trong năm tới, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, sẽ vẫn phải tiếp tục kế thừa của năm 2012 nhiều vấn đề như nợ xấu, bất động sản đóng băng và các doanh nghiệp bên bờ vực phá sản.
Sự phục hồi kinh tế của Việt Nam trong năm 2013, được cho là phụ thuộc rất nhiều vào tăng trưởng kinh tế của Mỹ, Trung Quốc cũng như tình hình tại Châu Âu.

Tăng trưởng kinh tế năm 2013 của Việt Nam, theo JPMorgan Chase dự đoán, sẽ là 5,2%, thấp hơn so với chỉ tiêu 5,5% của chính phủ Việt Nam.


Tuy nhiên, theo kinh tế gia Lê Đăng Doanh, nền kinh tế cũng đã có những sự tiến bộ nhất định như xuất siêu, lạm phát giảm, lãi suất giảm.
Ông cũng hy vọng số lượng các doanh nghiệp phá sản sẽ giảm bớt, Việt Nam sẽ đón nhận được thêm đầu tư nước ngoài và quá trình tái cơ cấu ngân hàng, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ được tiến hành tốt hơn.
Tuy nhiên ông nhấn mạnh, để thực hiện được một điều này cần một quyết tâm rất lớn từ bộ máy điều hành
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh





Khi nghĩ về vận mệnh một quốc gia, người ta cho rằng, cần cả ba yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ba yếu tố đó quyết định quốc gia, hoặc hưng thịnh hoặc suy vi...
Năm 2012, năm cuối cùng của một con giáp (tính từ năm 2000) sắp trở thành quá khứ, nhường đường cho 2013 đang từng giờ, từng khắc tiến tới. Nhưng những gì của năm này chắc chắn sẽ đi vào trong lịch sử hiện đại và bi tráng của nước Việt. Vì nó quá nhiều thách thức, quá nhiều cam go và day dứt...
"Đứng trước biển..."
Đây không phải cuốn tiểu thuyết một thời đã qua của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Nó là  "trang tiểu thuyết máu thịt" nhất của năm 2012- "đứng trước Biển Đông", mà cả dân tộc Việt đang phải viết, để trả lời cho câu hỏi: Thiên thời?
Chứa đựng trong lòng nó những nguồn lợị cực lớn: Giao thông, kinh tế, và quốc phòng an ninh, Biển Đông có vị trí "đắc  địa" với gần chục quốc gia có lợi ích liên quan, nhưng đặc biệt là với nước Việt, trong đó, hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa là tiền đồn đất nước. Chính sự "đắc địa" đó, đã hấp dẫn lòng tham- phải trở thành "cường quốc đại dương"- của nước bạn Trung Quốc. Bất chấp chủ quyền nước Việt, bất chấp luật pháp quốc tế, biến thành các bước thang xâm lấn vô độ:
Là khi TQ tuyên bố lập cái gọi là TP Tam Sa, (bao gồm huyện đảo Trường Sa- tỉnh Khánh Hòa, và huyện đảo Hoàng Sa-TP Đà Nẵng), đều thuộc VN.
Là mở thầu quốc tế tại chín lô dầu khí nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của VN, rồi gọi mời thầu quốc tế tại lô dầu khí 65/12 (thuộc chủ quyền VN).
Trước đó, tháng 5/2012, TQ chính thức lưu thông hộ chiếu phổ thông điện tử in hình "lưỡi bò" cho công dân TQ, một thái độ trắng trợn coi vùng biển thuộc chủ quyền VN thuộc chủ quyền...TQ.
Là xuất bản "bản đồ Tam Sa", bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của VN. Thông qua bản sửa đổi "Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam", trong đó, đưa hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (thuộc chủ quyền VN) vào áp dụng.
Là tàu cá TQ cố tình cản trở và gây đứt cáp tàu Bình Minh 02 của VN đang tiến hành thăm dò địa chấn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa VN.
Và còn gì nữa đây? Bắt đầu từ ngày 1/1/2013, TQ tự cho mình cái quyền, cảnh sát tỉnh Hải Nam sẽ tiếp cận các tàu tiến vào khu vực mà TQ coi là lãnh thổ của mình ở Biển Đông. Họ được phép lên tàu, kiểm soát các tàu nước ngoài "xâm nhập trái phép" và yêu cầu các tàu thay đổi lộ trình.
Ngày 1/1/2013 tới cũng là ngày Luật Biển VN bắt đầu có hiệu lực. Những gì  sẽ xảy ra trong ngày này và trong những năm tháng tiếp theo sau trên Biển Đông, ở vùng thuộc chủ quyền VN?
Quan sát những hành vi ngang nhiên xâm phạm, người ta có quyền đặt câu hỏi, chả lẽ "bạn bè", theo khái niệm của TQ,  một quốc gia vốn thâm sâu, tài hoa chữ nghĩa là vậy chăng? Là có quyền giẫm đạp lên chủ quyền nước khác, bất chấp các luật pháp quốc tế? Hay thực chất TQ đã thay đổi khái niệm "bạn bè" này từ lâu?
Đứng trước biển. Ảnh: Lê Anh Dũng
Nhưng TQ đừng quên, quy luật nhân thế gieo tính cách- gặt số phận.
Người phát ngôn Bộ  Ngoại giao VN từng nhiều lần tuyên bố khẳng định, hành động của phía TQ là hết sức nguy hiểm, vi phạm nghiêm trọng quyền tài phán, và quyền chủ quyền của VN, trái với Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc, và trái với lời văn Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông, cũng như nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước.
Còn Nhật Bản, sau những tuyên bố  cứng rắn của ông Shinzo Abe, người vừa tái đắc cử làm Thủ tướng, rằng Nhật Bản sở hữu và kiểm soát các hòn đảo (Senkaku- mà TQ gọi là Điếu Ngư) theo luật quốc tế, không có chỗ thương lượng về điểm này, ngày 24/12 vừa qua, Nhật lại điều các máy bay chiến đấu để chặn máy bay TQ.
Trước đó, nước này đã thành lập lực lượng cảnh sát biển đặc biệt bảo vệ  Senkaku. Cục Bảo an trên biển của Nhật đã tập trung hàng chục tàu tuần tra trong số 360 tàu của cục này, thường trực để bảo vệ Senkaku.
Tại Philipines, Đại tá Arnulfo Burgos Jr. người phát ngôn các lực lượng vũ trang Philippines tuyên bố: Hải quân nước này đã sẵn sàng chờ lệnh để bảo vệ chủ quyền đất nước ở các khu vực tranh chấp tại Biển Đông (khu vực bãi cạn Scarborough)
Mới đây, báo Tuổi trẻ đưa tin, cơ quan khí tượng Anh (Met Office) vừa đưa ra dự báo Năm 2013 sẽ là năm nóng nhất trong 160 năm qua, với nhiệt độ toàn cầu cao hơn mức trung bình 0,57 độ C.
Liệu sự tăng nhiệt của toàn cầu có nóng hơn độ "nóng" của Biển  Đông không? Nhất là khi nhật báo TQ vừa đưa tin, một siêu tàu lặn có tên Giao Long có thể được giao nhiệm vụ ở Biển Đông vào năm tới, 2013.... Giao Long có thể thâm nhập hệ thống cáp quang dưới đáy biển, ngăn chặn những bí mật thương mại, tìm lại các vũ khí hạt nhân và tên lửa thất lạc..., hỗ trợ hoạt động của hạm đội tàu ngầm TQ tại vùng Biển Đông.
Nhưng mới nhất, TQ tiết lộ sẽ  đầu tư 1,6 tỷ USD để xây dựng cơ sở  hạ tầng phi pháp trên cái gọi là "TP Tam Sa"
Sự xâm phạm chủ quyền biển  đảo nước Việt của TQ dường như đã không có... điểm dừng?
Từng trải qua nỗi nhục của hàng nghìn năm mất nước, với chữ "thuộc" đầy máu và nước mắt: Bắc thuộc, Pháp thuộc..., nước Việt có thể một lần nữa, cam chịu phận  "thuộc" nữa không?
Chỉ biết, hàng nghìn ngư dân Việt đã thực sự "dấn thân" vì chủ  quyền biển đảo. Họ bị bắt, bị mất hết cá tôm, ngư cụ, mất cả ngư trường..., nhưng vẫn kiên cường, lặng lẽ bám biển, vì  mưu sinh, và vì đó còn là nước Việt khổ  đau.
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa năm 2012. Ảnh: Đức Tiến/ VnSea.net
Họ gửi về đất liền ao ước của họ, nghe sao xót xa: Mong sớm có những đội tàu hùng mạnh bảo vệ an toàn cho ngư dâm yên tâm bám trụ hành nghề ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa.
Chỉ biết, hàng hàng những ngôi "mộ gió" cô đơn, nhớ nhà, nhớ biển, khiến cho những người Việt đang sống không một phút nào được phép yếu hèn, khiếp nhược, trước chủ quyền và sinh mệnh quốc gia đang bị thách thức.
Chỉ biết, hàng nghìn bài báo trên các trang mạng, hàng trăm bài nghiên cứu của giới học giả VN về chủ quyền biển đảo là thông điệp của tấm lòng, sự phẫn nộ đau đớn, cùng ý chí sắc nhọn trước họa xâm lăng. Là những lớp sóng bạc đầu, là lòng yêu nước Việt rõ ràng, dứt khoát trước sự tồn vong của dân tộc.
Yêu hòa bình, tôn trọng chủ quyền mọi quốc gia, vùng lãnh thổ, nhưng nước Việt vẫn còn đây- Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa- nghi thức thiêng liêng của những đội hùng binh tộc người Việt, những  người con tiên phong tiến ra quần đảo Hoàng Sa. Họ đã kiên cường trước sóng dữ, trước giặc dữ, và đã ngã xuống để bảo vệ, gìn giữ chủ quyền đất nước:
Xót thương thay, liều thân vì Tổ quốc, son sắt một lòng, ngang dọc chí nam nhi, phong ba dồn dập, huyết xương chẳng quản, mưa gió chẳng sờn, quân vụ biên phòng, chạnh niềm viễn xứ, quyết một dạ bảo vệ biên cương, bờ cõi. Hoàng Sa lãnh hải, biển cả mênh mông, tháng năm vô định...
Nước biển xanh hòa lẫn máu đỏ, còn chảy mãi trong con tim dải đất chữ S.
Đó cũng chính là thông điệp son sắt, bi thương của các bậc tiền nhân gửi lại cho hậu thế- cho nước Việt thời hiện đại: Chớ thấy sóng cả, mà ngã tay chèo!
Lòng đất, lòng người
Đất đai từ ngàn xưa, luôn là của cải vật chất trân quý nhất với con người, không chỉ riêng một quốc gia nào, một dòng họ nào, một cá nhân nào.
Ngay tác phẩm văn học đồ sộ như Đất vỡ hoang (của M. Sholokhov, nhà văn Nga vĩ đại), cũng là để nói về hạnh phúc hay khổ đau của... đất, sự chọn lựa đúng đắn hay lầm lạc trước mọi nẻo đường của đời sống xã hội, gắn với mỗi số phận chìm nổi của những người dân Cozak vùng sông Đông khoáng đạt, kiêu hùng.
Ngay đến nàng Scarlett xinh đẹp, đầy cá tính và quyến rũ, trong tiểu thuyết nổi tiếng Cuốn theo chiều gió của nhà văn Mỹ Margaret Mitchell, trải qua những biến cố của thời cuộc, cả hạnh phúc và bất hạnh của tình yêu ngộ nhận, của duyên phận trớ trêu, cuối cùng, cũng quay trở về ấp Tara yêu quý của nàng. Mảnh đất nơi nàng sinh ra và lớn lên, với một tình yêu không thể có gì thay thế.
Đất đai với con người, được nối bằng một "sợi nhau" vô hình, mà thiêng liêng như thế.
Đất đai đem lại sự an lành, và tạo ra cả sự bất ổn cho xã hội. Sự kiện Ô khảm (Quảng Đông) rung chuyển cả TQ cách đây không lâu, đã nói lên điều đó.
Đủ hiểu, câu chuyện đất đai với người Việt, năm 2012 cũng là câu chuyện đau xót đầy kịch tính. Nếu biết rằng, có tới 70% vụ khiếu kiện thuộc lĩnh vực đất đai. Nếu biết rằng, đất đai cũng là nguồn "dinh dưỡng mỡ màu" cho nạn tham nhũng tồi tệ.
Nổi bật nhất, điển hình nhất là  hai vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng (Hải Phòng), và Văn Giang (Hưng Yên) khiến dư luận xã hội tranh cãi gay gắt. Dù hai vụ việc này rất khác nhau: Một bên (Tiên Lãng) là thu hồi đất nông nghiệp đã được giao, nay hết thời hạn, một bên (Văn Giang) là thu hồi đất nông nghiệp để chuyển sang làm dự án đô thị.
Nhưng cái kết quả cưỡng chế  "thành công" đều... đáng buồn, đều gây sốc và gây bất ổn trong tâm lý xã hội. Thậm chí, trong vụ Tiên Lãng, một quan chức ngành chức năng còn nhẫn tâm gọi là "trận đánh đẹp". Tiếc thay, ấn tượng trong dân về cả phương cách tổ chức cưỡng chế, thu hồi, lẫn "phát ngôn nổi tiếng" đó, lại rất... xấu, rất dở.
Ngôi nhà ông Vươn trên khu đầm sau khi bị phá hủy
Thủ tướng CP đã kết luận: Các quyết định thu hồi, cưỡng chế 19,3 hecta đầm tôm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng đều trái pháp luật, và yêu cầu sớm khởi tố, điều tra cán bộ đã chỉ đạo phá nhà ông Vươn.
Một kết cục bất ngờ, tưởng như an ủi được tâm lý xã hội đang bất bình- 50 cán bộ bị xử lý trong vụ  này. Trong đó, ông Chủ tịch, và Phó CT huyện  đều bị cách chức.
Nhưng bất ngờ hơn, đến tận thời điểm này, Liên Chi hội nuôi trồng thủy sản nước lợ huyện Tiên Lãng vẫn có đơn đề nghị Viện KSND TP Hải Phòng xem xét, trả lại hồ sơ vì kết luận của cơ quan điều tra có bốn điểm không khách quan, thậm chí cố tình bao che kẻ có tội.
Đặc biệt, kết luận ông Nguyễn Văn Khanh, nguyên Phó CT huyện Tiên Lãng phải chịu trách nhiệm toàn bộ về hành vi tổ chức, và thực hiện việc hủy hoại tài sản là không chính xác. Ngược lại, kết luận này lại bỏ lọt một số tội phạm, như không truy cứu trách nhiệm hình sự với Ban Chỉ đạo cưỡng chế, với những kẻ trực tiếp đốt, phá, cướp tài sản gia đình ông Đoàn Văn Vươn.
Mới đây, luật sư Tạ Ngọc Sơn, Giám  đốc Công ty Luật TNHH KOSY, phân tích ở góc độ chuyên môn, đã nhìn nhận:
Phó Chủ tịch UBND huyện (Nguyễn Văn Khanh) là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch UBND huyện phân công và phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND huyện. Do vậy, với tư cách Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng, ông Lê Văn Hiền phải là người chịu trách nhiệm về những hành vi mà ông Khanh đã thực hiện theo sự phân công đó. Ông Hiền cũng là đồng phạm trong việc hủy hoại tài sản này với vai trò người tổ chức.
Trong một diễn biến cũng không ít kịch tính, kết quả cưỡng chế thu hồi đất ở Văn Giang cho đến tận giờ, vẫn còn để lại dư  âm... Khi một vị cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường- Gs. ĐHV chấp nhận gặp gỡ đối thoại với người dân Văn Giang.
Kết quả cưỡng chế thu hồi đất ở Văn Giang cho đến tận giờ, vẫn còn để lại dư âm... Ảnh: Nguyễn Hưng/ VNE
Không biết cái kết của vụ việc Văn Giang sẽ "có hậu" không khi các bên hiện đã chấp thuận dừng trao đổi ? Nhưng đằng sau những vụ khiếu kiện, thậm chí gây bất ổn trong tâm lý xã hội, cho thấy Luật Đất đai 2003 phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, phù hợp quy luật thực tiễn, mới mang lại sự yên bình trong tâm hồn mỗi người dân.
Bởi lẽ, ngay trong các vụ thu hồi, cưỡng chế, dẫn đến khiếu kiện đất đai, rất dễ dàng nhận thấy "hố sâu' ngăn cách giữa hai bên. Một bên, người nông dân chất phác, một nắng hai sương, bỗng trở nên thiếu kiềm chế. Thậm chí có trường hợp bị quy kết "phạm tội chống lại người thi hành công vụ".
Một bên là chủ đầu tư, chủ dự án, và chính quyền cùng các lực lượng chức năng.
Cái "hố sâu" ngăn cách giữa hai bên, bởi hàng loạt những lý do đau xót. Giá  đất đền bù cho người dân quá rẻ mạt. Sự không minh bạch của các chủ đầu tư. Những kẽ hở của cơ chế thu hồi đất. Sự hoài nghi về tham nhũng nảy nở từ cách làm thiếu công khai, minh bạch. Hoặc "đi đêm" giữa những kẻ có đặc quyền, tạo nên những nhóm lợi ích.... v.v. và v.v...
Tờ Tuổi trẻ, ngày 26/12 mới đây cho biết, ngay cả Trung Quốc cũng đang chuẩn bị đưa ra dự thảo sửa đổi luật quản lý đất đai theo hướng tăng đền bù cho nông dân mất đất, nhằm ngăn chặn nguy cơ bùng nổ bạo động xã hội.
Kết quả khảo sát của ĐH Nhân dân Bắc Kinh cho biết, 40-50% giá trị của đất bị thu hồi (ở Trung Quốc) rơi vào tay nhà đầu tư. Chính quyền địa phương đút túi 20-30%. Khoảng 25-30% nuôi dưỡng các cơ quan hành chính thôn xã. Người nông dân bán đất chỉ nhận được vỏn vẹn 5-15% "miếng bánh" đất đai.
Thế nhưng, hóa ra, Luật Đất đai 2003 cũng ...long đong, lận đận như số phận những người nông dân nước Việt. Nếu biết rằng, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được trình- rồi lại xin hoãn- giải trình..., như một điệp khúc chậm chạp, trong khi lòng dân chờ đợi nóng như lửa đốt.
Và trong khi dự thảo Luật  Đất đai (sửa đổi) chờ đợi để được  "đền bù" cho hoàn thiện, thì lòng đất cũng cồn cào như... lòng người.
Năm 2012: Biển trời đau, đất đau, và lòng người có... đau?

Góc nhìn năm 2012

Những đánh giá dưới đây được ghi nhận từ các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế, các hội nghị cũng như báo cáo của nhiều ban ngành trong năm 2012. Có đối chiếu với một số nước trong khu vực và thế giới tuy chưa đầy đủ nhưng phần nào cũng cho thấy “cái được” và “chưa được” của chúng ta trong năm 2012 vừa qua. Việt Nam xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới
- Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tính đến cuối năm 2012, xuất khẩu gạo của Việt Nam dự kiến đạt 7,7 triệu tấn và đứng thứ hai thế giới. Ấn Độ với chính sách bán gạo giá rẻ và lợi thế về địa lý với thị trường châu Phi đã tăng mạnh lượng xuất khẩu lên đến 8,7 triệu tấn để vượt qua cả Việt Nam và Thái Lan.
- Về cà phê, theo Tổ chức Cà phê quốc tế (IOC) Việt Nam đã vượt qua Brazil để trở thành nhà xuất khẩu cà phê số 1 trên thế giới trong năm 2012 nhờ sản xuất được mùa lại được giá. Tính theo niên vụ cà phê (từ 1-10-2011 đến 30-9-2012), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ước tính khối lượng xuất khẩu đạt 1,6 triệu tấn, với kim ngạch đạt trên 3 tỉ USD. Tuy vậy, nếu tính theo sản lượng thì Việt Nam vẫn đứng thứ hai sau Brazil về xuất khẩu cà phê.
- Hiệp hội Điều Việt Nam cho biết trong 10 tháng đầu năm 2012, lượng điều xuất khẩu ước đạt 181.000 tấn, kim ngạch 1,224 tỉ USD, tăng 25,8% về lượng và 2,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2011. Nhờ đó, Việt Nam tiếp tục là nước xuất khẩu hạt điều nhân số một thế giới. Xuất khẩu những tháng còn lại có xu hướng giảm nhẹ nhưng không đáng kể.
- Về cao su, năm 2012 Việt Nam đứng thứ tư về xuất khẩu cao su thiên nhiên với khoảng gần 1 triệu tấn, sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Thông tin này được Hiệp hội Cao su Việt Nam công bố trong một hội nghị diễn ra hồi cuối tháng 11-2012.
- Thông tin từ kỳ họp lần thứ 40 của Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) mới đây cho thấy khối lượng hồ tiêu xuất khẩu của quốc tế năm 2012 là 205.752 tấn, trong đó Việt Nam xuất khẩu 118.400 tấn, chiếm hơn 50% thị phần và là nước xuất khẩu hạng nhất, với khoảng cách khá xa so với nước đứng nhì là Ấn Độ.

Đứng thứ 7 thế giới về kiều hối năm 2012
Trong báo cáo cập nhật được Ngân hàng Thế giới công bố hồi tháng 11, lượng kiều hối về Việt Nam năm 2012 có thể đạt con số 9 tỉ USD, đứng thứ bảy trong nhóm các nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới năm 2012.
Đứng đầu danh sách này là Ấn Độ với con số kỷ lục 70 tỉ USD. Tiếp theo là Trung Quốc (66 tỉ), Mexico và Philippines mỗi nước nhận 24 tỉ USD. Các nước khác nhận được nhiều kiều hối gồm có Nigeria (21 tỉ USD), Ai Cập (18 tỉ USD), Pakistan và Bangladesh mỗi nước nhận 14 tỉ USD, Việt Nam (9 tỉ USD) và Lebanon (7 tỉ USD).
Tuy nhiên, một số chuyên gia kinh tế của Việt Nam dự báo lượng kiều hối thực tế sẽ cao hơn con số WB đưa ra, tức là khoảng 10-11 tỉ USD.
Nằm trong Top đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về Niềm tin tiêu dùng
Bốc xếp gạo xuất khẩu ở cảng Sài Gòn
Theo thông tin từ MasterCard Worldwide, Việt Nam xếp thứ ba trong số các quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương về Chỉ số Niềm tin tiêu dùng. Chỉ số này được xác định dựa trên năm yếu tố: thu nhập bình quân, chất lượng cuộc sống, thị trường chứng khoán, nền kinh tế và việc làm. Báo cáo Chỉ số Niềm tin người tiêu dùng nửa đầu năm 2012 của MasterCard Worldwide công bố hồi đầu tháng 8 cho thấy Ấn Độ là quốc gia lạc quan nhất ở châu Á - Thái Bình Dương với 82,1 điểm. Tiếp theo đó là Trung Quốc (77,4 điểm), Việt Nam (77,2 điểm) và Thái Lan (75,8 điểm). Mặc dù niềm tin tiêu dùng của Việt Nam giảm nhẹ 1,6 điểm nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực.
Chi phí sinh hoạt tại TP.HCM rẻ nhất Đông Nam Á
Theo khảo sát Chi phí sinh hoạt năm 2012 tại 425 địa điểm ở 193 quốc gia và vùng lãnh thổ của Công ty Tư vấn ECA International, TP. Hồ Chí Minh là thành phố rẻ nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ 217 trên toàn cầu. Thành phố Hà Nội đắt hơn, xếp ở vị trí 204.
Cuộc khảo sát của ECA International đã so sánh những biến chuyển trong một năm qua, tính từ tháng 9-2011 đến tháng 9-2012. Các chi phí sinh hoạt trên chịu ảnh hưởng của lạm phát, lượng hàng hóa sẵn có và tỷ giá hối đoái.
Để giúp các công ty đa quốc gia tính toán lương, ECA tiến hành hai cuộc khảo sát chi phí sinh hoạt mỗi năm, so sánh một giỏ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ thường được mua tại hơn 400 quốc gia trên thế giới.
Xếp thứ 8 thế giới về tiêu thụ vàng
Theo báo cáo về xu hướng nhu cầu vàng năm 2011 (Global Demand Trends Report) mà Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) vừa công bố, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới về mức tiêu thụ kim loại quý này.
Vàng được xem là một lựa chọn đầu tư hàng đầu của nhiều người Việt để đối phó với lạm phát cao, thị trường chứng khoán xuống dốc và sự mất giá của VND. Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số vàng được người dân trong nước cất giữ hiện nay có thể từ 300 đến 500 tấn. Thông tin khác nói số này có thể lên đến 1.000 tấn.
Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng
Tại hội thảo "Vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng" diễn ra tại Quảng Ninh ngày 9-8-2012 do Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức, Tổ chức Minh bạch Quốc tế đánh giá Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng.
Trong những năm gần đây, Việt Nam thường được 2,6-2,7 điểm trong thang điểm 10 về chỉ số cảm nhận tham nhũng (dưới 3 điểm được coi là tham nhũng nghiêm trọng). Năm 2011, tuy có những tiến bộ nhất định với 2,9 điểm, xếp thứ 112/182 nước và vùng lãnh thổ, nhưng Việt Nam vẫn thuộc những nước có điểm số thấp và đứng ở vị trí nhóm cuối bảng xếp hạng.
Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế thì trong khu vực châu Á, tình hình tham nhũng của Việt Nam nghiêm trọng hơn so với Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei, Malaysia, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia...
Đứng thứ 11 trong số các nước có số người chết vì tai nạn giao thông
Số liệu được đưa ra trong lễ công bố kết quả Khảo sát quốc gia Tai nạn thương tích được tổ chức tại Hà Nội ngày 4-5-2012 cho thấy Việt Nam đứng thứ 11 trong số các nước có số người chết vì tai nạn giao thông lớn nhất thế giới.
Mỗi năm ở Việt Nam có tới hơn 35.000 người chết do tai nạn (trung bình 100 người mỗi ngày), trong đó tai nạn giao thông là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu với khoảng 15.000 người chết, chiếm tới 43%.
Theo kết quả khảo sát, số người tử vong do tai nạn thương tích còn cao hơn so với các bệnh lây nhiễm và không lây.
Trong tai nạn giao thông, 75% số vụ tử vong có liên quan đến xe máy; tỷ lệ tử vong khi đi bộ là xấp xỉ 15% trong khi đó đi xe đạp tỷ lệ tử vong chỉ chiếm chưa đến 5%.
Trong 10 nước có không khí ô nhiễm nhất thế giới
Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có không khí ô nhiễm nhất thế giới. Ảnh LT
Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có không khí ô nhiễm nhất thế giới, theo một nghiên cứu thường niên về môi trường do các trường đại học của Mỹ thực hiện và công bố tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos hồi tháng 2-2012. Bản báo cáo môi trường có tên gọi "The Environmental Performance Index" - gọi tắt là EPI 2012 - do hai trường đại học Yale và Columbia thực hiện, phối hợp với Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF).
EPI 2012 xếp hạng 132 quốc gia trên khắp thế giới dựa vào 22 nhân tố thuộc 10 hạng mục chính, trong đó có ô nhiễm nước và không khí, thay đổi khí hậu, đa dạng sinh học và quản lý rừng.
Tiêu thụ sừng tê giác với số lượng lớn nhất
Báo cáo của Quỹ Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) công bố hồi cuối tháng 7-2012 xác định Việt Nam là quốc gia tiêu thụ sừng tê giác với số lượng lớn nhất và được coi là tác nhân gây ra khủng hoảng săn bắn trộm tại Nam Phi.
Bà Elisabeth McLellan, Quản lý Chương trình Toàn cầu của WWF, nhấn mạnh: "Đây là thời điểm mà Việt Nam cần phải nhận ra rằng chính việc tiêu thụ bất hợp pháp sừng tê giác đã gây ra nạn săn bắn trộm tại châu Phi và rằng chính phủ cần phải phá bỏ các đường dây buôn bán sừng tê giác bất hợp pháp. Việt Nam nên xem xét lại khung hình phạt đối với loại tội phạm này và ngay lập tức ngăn chặn thị trường tiêu thụ, bao gồm cả việc dỡ bỏ quảng cáo bán sừng tê giác trên internet".
Tuy nhiên, đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong một báo cáo gửi đến Công ước Quốc tế về buôn bán các loại động thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) cho rằng Việt Nam không phải là địa bàn tiêu thụ chính sừng tê giác mà chỉ là nơi trung chuyển sang Trung Quốc. Đặc biệt, cơ quan này dẫn số liệu của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, cơ quan chuyên giám định mẫu vật, thì 70% mẫu vật sừng tê giác ở Việt Nam là giả.
Người Việt uống bia nhiều nhất Đông Nam Á
Theo thống kê của Công ty Nghiên cứu Thị trường Toàn cầu Euromonitor International (Anh) thì Việt Nam nằm trong Top đứng đầu các nước sử dụng chất kích thích như bia, rượu khi tham gia giao thông.
Đầu năm 2012, bộ phận điều tra nghiên cứu của công ty sản xuất bia danh tiếng Nhật Bản là Kirin Holdings ghi nhận Việt Nam nằm trong số 25 quốc gia tiêu thụ bia nhiều nhất thế giới với sản lượng tiêu thụ tăng 15%/năm, chỉ sau các nước Nigeria (tăng 17,2%), Ấn Độ (tăng 17%), Brazil (tăng 16%).
Trước đó, Euromonitor International cũng đánh giá Việt Nam là nước tiêu thụ bia hàng đầu Đông Nam Á với gần 2,6 tỉ lít trong năm 2011.
Theo dự báo của cơ quan lập quy hoạch, đến năm 2015, Việt Nam sẽ sản xuất và tiêu thụ 4,2-4,4 tỉ lít bia, bình quân 45-47 lít/người/năm. Mười năm sau đó, mỗi người Việt Nam sẽ uống bình quân... 60-70 lít bia/năm.
Vào những thời điểm kinh tế khó khăn, doanh số bán hàng của những hãng bia danh tiếng tại các thị trường trên thế giới đều giảm, riêng tại thị trường Việt Nam thì vẫn tăng vọt. Điều này cho thấy nhu cầu tiêu dùng bia của Việt Nam rất cao.

Việt Nam 2013: Hiểm họa và cơ hội

Năm 2012 qua đi, những khó khăn tăng lên, nhiều nguy cơ dần hiện hình thành hiểm hoạ đối với đất nước trên tất cả các lĩnh vực. 
Trước hết và nổi bật là hiểm hoạ đối với nền độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải của Tổ Quốc.
Người Việt Nam chuộng hoà hiếu, không nuôi hận thù, không xem một thế lực nào tự thân là “kẻ thù truyền kiếp” của mình. Chúng ta càng có nhiều lý do để  mong muốn “chung sống hoà bình” với Trung Hoa, quốc gia láng giềng to lớn và nhiều duyên nợ. Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, chính sách của quốc gia này đang gây ra những hiểm hoạ thực tế và trực tiếp đối với độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam. Rất nhiều sự kiện năm 2012 đã bộc lộ rõ rệt điều này, đến mức không ai có thể che dấu, lấp liếm. 
Những mưu đồ và hành động tham lam, trắng trợn của Trung Hoa ở Biển Đông đã làm cho cả thế giới bất bình và lo lắng; Việt Nam là nạn nhân trực tiếp nhất nên càng bất bình và lo lắng hơn. Nhưng Biển Đông cũng chỉ là một phương diện  trong thế “thập diện mai phục” trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hoá, tư tưởng…mà Trung Hoa đã giăng ra để khuất phục Việt Nam, hung hiểm và khó đối phó hơn. 



Vấn đề không phải là đối phương có mưu đồ gì, thâm độc ra sao, mà là ở chỗ đối phó với mưu đồ đó thế nào cho hiệu quả. Rất cần sự tỉnh táo, tinh tường để nhìn đúng bản chất vấn đề, cân nhắc các yếu tố, các mối quan hệ. Cũng rất cần sự mềm mỏng, khéo léo, linh hoạt kết hợp “cương nhu”…Nhưng tất cả phải phục vụ cho mục tiêu là bảo vệ được độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chính đáng của đất nước. Sách lược nào đi ngược mục tiêu đó là đầu hàng, bán nước.
Mục tiêu nói trên chỉ có thể thực hiện được nếu huy động được sức mạnh của dân tộc và thời đại. Cả hai vấn đề này đều chưa làm chưa tốt.
Sức mạnh của thời đại ngày nay không còn nằm ở “ba dòng thác cách mạng”,  ở những mối quan hệ hình thức “chung lý tưởng” kiểu “đồng chí nhưng không đồng minh”…Sức mạnh thời đại nằm ở chỗ lương tri loài người đã  thức tỉnh đủ mức để nhận biết và phản đối  mọi mưu đồ xâm lược, áp bức và thống trị; nằm ở chỗ  vận mệnh các dân tộc liên hệ chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết trong thế giới toàn cầu hoá, do đó không dân tộc nào đơn độc trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chính đáng và phẩm giá của mình. Sức mạnh thời đại còn nằm cả ở chỗ các thế lực lớn trên thế giới theo đuổi những mục tiêu và lợi ích không đồng nhất, tạo ra tình trạng kiềm chế, khắc chế lẫn nhau, không cho phép kẻ nào đơn phương lộng hành. 
Sức mạnh nào muốn phát huy tác dụng đều cần có một điểm đặt. Điểm đặt đó chính là lập trường rõ ràng, nghiêm chỉnh, công khái, kiên định và nhất quán của Việt Nam - nạn nhân và người trong cuộc. Việt Nam không thể né tránh việc công khai lên án và tố cáo mưu đồ xâm lược, phải tỏ rõ ý chí kiên quyết bảo vệ độc lập, tự chủ, các lợi ích chính đáng của mình, phải có biện pháp dần thoát ra khỏi tình trạng bị vây ép từ mọi phía nhiều khi đã chót rơi vào.
Trong một thế giới đan xen nhiều lợi ích, nhiều mối quan hệ, một mặt phải tỉnh táo để không bị ai lợi dụng, mặt khác phải dám chủ động, quyết đoán tham gia “bàn cờ” quan hệ quốc tế, nhất là với các nước lớn, không để cho chính sách của mình bị bất cứ thế lực nào bắt làm con tin. Trong tình hình thực tế hiện nay, khi Trung Hoa đã bộc lộ không dấu diềm mưu đồ và các bước đi của mình, rất cần giữ “cái đầu lạnh” không mắc mưu khiêu khích, nhưng lặp lại các luận điệu trong các khẩu hiệu cũ…là xảo ngôn và có hại về nhiều phương diện.
Chưa phát huy được sức mạnh thời đại có nguyên nhân cơ bản là do chưa phát huy được sức mạnh toàn dân tộc. Để thắng những lực lượng vật chất  lớn hơn mình nhiều lần thì sức mạnh tinh thần, bản lĩnh và tài trí Việt Nam luôn là yếu tố quyết định để nhân lên, tập trung, khai thác hiệu quả nhất sức mạnh vật chất hạn chế của đất nước  Sức mạnh tinh thần Việt Nam là lòng yêu nước, ý chí “thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ”, là khối đoàn kết toàn dân, “cả nước một lòng”“trên dưới một lòng”, là bản lĩnh của lực lượng lãnh đạo biết huy động, tổ chức được lực lượng toàn dân hướng  vào mục tiêu chung.
Sức mạnh này vẫn chưa được phát huy mạnh mẽ trong năm 2012, thậm chí đã lộ ra không ít “tử huyệt”.
Nền kinh tế đất nước đang phải vật lộn với những căn bệnh trầm kha, hiểm nghèo về tài chính, nợ nần, cơ cấu, đầu tư, khả năng cạnh tranh,  quản lý…Chính sách đối với đất đai, đối với kinh tế quốc doanh đã bộc lộ đầy đủ những  khuyết điểm, gây ra những tổn thất lớn về kinh tế, về chính trị- xã hội. Trong khi đó, chúng ta vẫn bị giam hãm trong tư duy cũ, bị chi phối bởi nhóm người có lợi ích trong việc duy trì hiện trạng.
Đời sống vật chất suy giảm, nhưng đời sống tinh thần suy giảm nghiêm trọng hơn còn đáng lo hơn. Văn hoá, giáo dục, y tế, dân số, bảo vệ môi trường… đều đang đứng trước nhiều vấn nạn, đang dần “tự đánh mất” chức năng và vai trò của mình. Thất nghiệp, tai nạn, tệ nạn trộm cướp, bạo lực ngày càng tăng. Gần như trở thành chuyện hàng ngày  những tội ác man rợ chưa từng có và cũng “vô lý” đến khó hiểu.
Khi bước vào năm 2012, người ta đã nhận biết những khó khăn chồng chất trước mắt, nhưng không ít người vẫn hy vọng vào năng lực của ban lãnh đạo mới được Đại hội XI bầu ra, nhất là trong việc tháo gỡ điểm nút, giải quyết“vấn đề của các vấn đề” là công tác xây dựng Đảng. Hy vọng vì thấy lãnh đạo Đảng đã mô tả khá sát đúng hiện tình Đảng, nhận biết tình chất “sống còn” của vấn đề, đã triển khai công việc với quy mô lớn, nhịp độ khẩn trương. Không ai có ảo tưởng về một sự đột biến, nhưng nhiều người hy vọng rằng những chuyển biến trong đổi mới và chỉnh đốn Đảng có thể là bước đầu, nhưng phải thực chất và có tính cơ bản. 
Kết thúc bài viết đầy khắc khoải này khi giã biệt 2012, tôi không mong gì hơn là những sự kiện trong năm 2013 tới đây sẽ chứng tỏ rằng phần lớn những điều nói trong bài viết này là sai, là phiến diện không biết những thông tin sáng hơn, là hời hợt vì không thấy được xu thế đi lên, không nhận biết những mạch ngầm lành mạnh đang chuyển động dưới các hiện tượng bề ngoài.
Nhưng điều tôi tin là chuyển biến và thành quả nào cũng không tự nhiên đến, mà phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc của toàn dân tộc, trước hết của ban lãnh đạo hiện nay và những lực lượng tinh hoa của dân tộc. Tình huống hiểm nghèo đòi hỏi bản lĩnh lớn và nhân cách lớn để đưa ra những quyết định lớn, sáng tạo, mới mẻ, để có đủ dũng cảm thực hiện đến cùng các quyết định đó.

Kinh tế Việt Nam: Nhìn về năm 2013

Năm 2012, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế trong nước và quốc tế cũng như của nhiều nhà doanh nghiệp Việt Nam, là một năm khó khăn về kinh tế của Việt Nam.
Con số doanh nghiệp tư doanh vừa và nhỏ phá sản không ngừng tăng lên so với năm 2011, số doanh nghiệp còn trụ lại phần lớn hoạt động cầm chừng theo kiểu chờ thời, giảm bớt lao động, chấp nhận thu hẹp sản xuất, giảm doanh thu, giảm lợi nhuận. Đa số các doanh nghiệp tư doanh nhỏ không thể tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, một phần do nhiều ngân hàng thương mại cổ phần gặp khó khăn về thanh khoản, phần khác do các ngân hàng lớn thường chỉ nhắm đến mối quan hệ với các doanh nghiệp thân hữu và các doanh nghiệp lớn. Các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ do đầu tư tràn lan và không hiệu quả vào những lĩnh vực như tài chính và bất động sản từ những năm trước. Sản xuất kinh doanh nội địa tăng trưởng chậm, tồn kho hàng hóa ứ đọng, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, hệ thống ngân hàng suy yếu là những đám mây xám che phủ bầu trời kinh tế năm 2012.
Tuy rằng cũng có những tia nắng le lói làm giảm bớt độảm đạm như tốc độ lạm phát còn một con số, tỷ giá đồng bạc Việt Nam khá ổn định trong suốt năm 2012 so với đồng USD, thâm hụt cán cân thương mại thấp nhất so với nhiều năm qua và dự trữ ngoại hối quốc gia được củng cố, nhưng theo nhiều nhà phân tích, các dấu hiệu được coi là tích cực này cũng chỉ là phó phẩm tự nhiên của một nền kinh tế đang tăng trưởng chậm dần.
Tốc độ lạm phát ở mức 8% không thấp khi nền kinh tế đang lún sâu vào giảm phát, khi sản xuất đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp lên xấp xỉ 10% và tăng trưởng GDP chỉ còn 5,3%. Một đồng bạc Việt Nam ổn định so với một đồng USD giảm giá liên tục trong năm 2012 cũng có nghĩa là đồng Việt Nam đang giảm giá, nhưng điều đáng suy nghĩ là sựổn định của đồng bạc Việt Nam phản ánh một mức cung tiền đồng thấp kỷ lục so với nhiều năm trước, thể hiện qua hiện tượng thiếu thanh khoản tiền đồng triền miên của các ngân hàng thương mại, lãi suất cho vay và huy động tiền đồng trên thực tế tăng cao, tăng trưởng tín dụng đạt thấp dẫn đến hiện tượng khát vốn tiền đồng nghiêm trọng của doanh nghiệp trong nước. Sự cải thiện cán cân thương mại trong năm 2012 là một dấu hiệu tích cực nhưng không chắc sẽ lâu bền, khi trên thực tế, nó chỉ phản ánh tình hình giảm sút nhập khẩu do giảm đầu tư tạm thời trong năm 2012 của các tập đoàn kinh tế nhà nước khi họ phải tập trung giải quyết khủng hoảng nợ. Bằng chứng là dự báo chính thức về nhập siêu năm 2013, như sẽ thấy dưới đây, vẫn là một con số không hề nhỏ.
Trong tình hình đó, một triển vọng phục hồi kinh tế ngay trong năm 2013 của Việt Nam là không chắc chắn. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã điều chỉnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới năm 2013 từ 4,1% xuống 3,9%, trong đó tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển chỉ còn 1,9%, còn tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi (emerging economies) tại châu Á là 5,9%, với viễn ảnh không sáng sủa về khủng hoảng lương thực mang tính toàn cầu, hậu quả của hạn hán kéo dài trong năm 2012 và giá dầu tăng do nhu cầu tiêu thụ dầu của thế giới sẽ tăng thêm 1 triệu thùng mỗi ngày, lên 90,1 triệu thùng/ngày. Các đầu tàu kéo của nền kinh tế thế giới như Tây Âu và Mỹ chưa chắc đủ lực để kéo lê bản thân họ.
Nhiều nước trong EU vẫn chưa thoát khỏi cơn khủng hoảng nợ công lan rộng, đồng euro ngày càng trở nên suy yếu, dự kiến sẽ giảm giá đến 2,5% vào năm 2013 so với năm 2011. Cũng vậy, một nước Mỹ đang lơ lửng trên bờ vực tài chính công (fiscal cliff) rất cần tập trung nguồn lực để vượt qua khó khăn này, dù rằng Tổng thống Obama tái đắc cử nhiệm kỳ hai mang đến tia hy vọng về một sự đồng thuận chính trị có thể giúp nước Mỹ vượt qua vũng lầy kinh tế. Trong tình hình đó, các nhà phân tích kinh tế quốc tế đều nhận định rằng các động lực khả dĩ thúc đẩy nền kinh tế thế giới thoát khỏi vũng lầy suy thoái kép xem ra còn rất mờ nhạt trong năm 2013. Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil tuy đang có những động thái tích cực như nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất và mở rộng tín dụng để kích thích nền kinh tế của họ, nhưng những nền kinh tế hướng về xuất khẩu này chưa bao giờ đủ giàu có và đủ rộng mở để trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế thế giới.
Tình hình chung nói trên chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với khả năng hồi phục của những nền kinh tế mới nổi (emerging economies) trong đó có Việt Nam. Nhưng đối với Việt Nam, các trở ngại trên con đường tăng trưởng kinh tế không chỉ bắt nguồn từ tác động suy thoái của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế chúng ta còn có những vấn đề riêng, những chấn thương riêng và hậu quả của các tổn thương này - đặc biệt là tình trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng, sự kém hiệu quả của đầu tư công và một khu vực tư doanh đói vốn nghiêm trọng - sẽ xuất hiện rõ rệt hơn trong năm 2013 và có thể kéo dài sang những năm tới, khiến nền kinh tế có thể lún sâu vào tình trạng lạm phát trì trệ, nếu chúng ta không sớm có những liệu pháp chữa trị kịp thời và một chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn.
Báo cáo mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình kinh tế xã hội năm 2012 và định hướng phát triển cho năm 2013 trình Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã dự báo tốc độ tăng trưởng GDP là 5,5%, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 124,3 tỉ USD, tăng 10% so với 2012, trong đó nhập siêu tương đương 8% kim ngạch xuất khẩu, tức khoảng 10 tỉ USD, bội chi ngân sách chiếm 4,8% GDP và lạm phát, được đo bằng tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sẽ giữở mức 7 - 8%. Đây có thể nói là một dự báo khá lạc quan về tốc độ tăng trưởng, một sự tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư công khi mức bội chi ngân sách được dự kiến lên đến gần 5% GDP và khiếm hụt cán cân thương mại lên đến 10 tỉ USD. Mức tăng trưởng GDP của Việt Nam trên 5% cho năm 2013 cũng là dự báo của ADB (5,1%), IMF (5,8%) và một báo cáo độc lập của Ngân hàng HSBC (5,3%).
Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế trong nước có một cái nhìn thiết thực hơn và hợp lý hơn. Theo một nghiên cứu của Viện Kinh tế Việt Nam gồm các tác giả Trần Đình Thiên, Bùi Trinh, Phạm Sỹ An và Nguyễn Việt Phong, chỉ nên đặt mục tiêu tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2013 ở mức 4 - 4,5% và nên dồn sức vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các chương trình tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng cường hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Nhóm khuyến cáo không nên chạy theo mục tiêu tăng trưởng bằng cách tăng đầu tư công tràn lan và không hiệu quả thí dụ như đập phá và xây dựng trụ sở mới của cơ quan nhà nước, mua sắm xe cộ, đào và lát lại vỉa hè..., những kiểu đầu tư công như vậy có thể làm tăng GDP nhưng không tạo được hiệu ứng dây chuyền cho các khu vực kinh tế khác và nhất là không hiệu quả và sẽ thúc đẩy lạm phát.
Thật vậy, một năm 2013 có thể mang nhiều ý nghĩa hơn cho một tiến trình tăng trưởng mới lâu bền của nền kinh tế Việt Nam nếu chúng ta mạnh dạn nhìn lại những nhược điểm cố hữu của nền kinh tế và thực hiện một chương trình tái cấu trúc kinh tế hợp lý mà mục tiêu chiến lược là sung dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên trong và bên ngoài.
Trong nhiều năm, khiếm hụt ngân sách quốc gia lớn và các khoản tài chính khổng lồ vay trong nước và ngoài nước nhằm cung ứng nguồn lực cho khu vực kinh tế nhà nước mà chủ yếu là các tập đoàn kinh tế lớn đã không mang lại hiệu quả. Khủng hoảng nợ của các tập đoàn kinh tế và tình hình nợ tồn đọng trong hệ thống ngân hàng là những hệ quả tất nhiên phải đến. Khi hệ số ICOR của nền kinh tế lên cao, trong đó hệ số ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên xấp xỉ hai con số, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chắc chắn phải sút giảm, nền kinh tế thường xuyên bị lạm phát đe dọa. Đây chính là nguyên nhân làm lệch lạc chính sách tiền tệ, đưa đến việc duy trì thường xuyên lãi suất và tỷ giá đồng bạc cao. Điều này ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Một nghiên cứu độc lập cho biết, tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng hiện nay là 2,7 triệu tỉ đồng, với lãi suất cho vay bình quân là 15%/năm, mỗi tháng nền kinh tế phải trả lãi cho hệ thống ngân hàng 40 ngàn tỉ đồng, tương đương 2 tỉ USD. Với một nền kinh tế có quy mô GDP 130 tỉ USD, mỗi năm khu vực sản xuất kinh doanh phải trả đến 24 tỉ USD cho hệ thống ngân hàng (trên lý thuyết), tương đương 18,6% GDP, như vậy là quá cao.
Một chiến lược sung dụng tài nguyên hiệu quả phải hướng các nguồn lực vào khu vực kinh tế tư doanh, nơi đầu tư tỏ ra hiệu quả hơn với hệ số ICOR luôn luôn thấp hơn nửa so với khu vực kinh tế nhà nước. Bài học vừa qua cho thấy các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động kém hiệu quả không phải vì họ thiếu thốn các nguồn lực mà là vì họ quá dư thừa nguồn lực, dẫn đến đầu tư tràn lan, thất thoát vốn và khủng hoảng nợ. Rõ ràng con chiều là con hư. Các tập đoàn kinh tế lớn chắn chắn sẽ hoạt động tốt hơn nếu được quản trị có trách nhiệm hơn bằng việc tiết kiệm các nguồn lực, nhất là nguồn vốn từ ngân sách. Cắt giảm đầu tư công sẽ giúp việc sử dụng các nguồn lực quốc gia trở nên hiệu quả hơn, đồng thời giúp làm giảm khiếm hụt ngân sách, giảm công chi và giảm lạm phát.
Trong điều kiện đó, một chính sách tiền tệ nới lỏng với lãi suất thấp và tăng trưởng tín dụng ngân hàng sẽ phát huy tác dụng kích thích sản xuất trong nước, và khi nó đồng hành với một chính sách thuế khoan dưỡng sức dân, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam sẽ được tăng cường mạnh mẽ. Nhưng trước hết, củng cố hệ thống ngân hàng, giải quyết tình hình nợ tồn đọng thông qua các giải pháp hợp lý, công bằng và hiệu quả sẽ phải là công việc ưu tiên hàng đầu của năm 2013. Một thị trường tiền tệ năng động và lành mạnh, đến lượt nó, sẽ làm hồi sinh thị trường vốn, chỗ dựa tài chính lâu dài của doanh nghiệp.
Kinh Dịch nói rằng "Vật cùng tắc biến, biến tắc thông". Mong rằng nguyên lý đó sẽ mang lại niềm hy vọng cho năm 2013.

Kinh tế Việt Nam 2013 trong mắt doanh nghiệp nước ngoài

 
Trong năm qua, chính sách kinh tế vĩ mô bất ổn kéo dài đã khiến cho bức tranh về nền kinh tế Viêt Nam trở nên khá ảm đạm đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Trước những nỗ lực thắt chặt tài khóa và tiền tệ để giảm lạm phát, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng... mà Chính phủ đang thực hiện thì liệu các nhà đầu tư nước ngoài có cái nhìn sáng sủa hơn về tình hình kinh tế Việt Nam trong năm tới hay không? Những chia sẻ của ông Herb Cochran, Giám đốc Điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) tại TP. Hồ Chí Minh, ông Yasuzumi Hirotaka, Giám đốc Điều hành Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) tại TP. Hồ Chí Minh và ông Paul John Jewell, Giám đốc điều hành Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) sẽ phần nào giải đáp câu hỏi này.
Triển vọng của nền kinh tế Việt Nam năm 2013
Trong năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong cải cách kinh tế nhưng chưa có những kết quả rõ rệt. Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài thì liệu kinh tế Việt Nam có sự phục hồi trong năm 2013?
Ông Yasuzumi Hirotaka: Cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản đã nhận thấy những dấu hiệu phục hồi nền kinh tế Việt Nam vào cuối năm 2012 và đầu năm 2013. Đây là một kết quả khá lạc quan có được nhờ chính sách ổn định lạm phát của Chính phủ. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ tiếp tục vận hành nền kinh tế vĩ mô ổn định và liên tục trong tương lai.
Ông Yasuzumi Hirotaka,
Giám đốc Điều hành Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) tại TP. Hồ Chí Minh
Ông Herb Cochran: Mặc dù không còn là điểm đến hàng đầu trong khu vực nhưng Việt Nam vẫn còn rất nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư. Vì vậy, các doanh nghiệp của AmCham vẫn sẽ tiếp tục tăng cường nguồn vốn vào thị trường này. Tuy nhiên, chúng tôi không nghĩ rằng nền kinh tế Việt Nam có thể hồi phục trong năm tới, đặc biệt là kinh tế nội địa. Những bất ổn trong nền kinh tế đã có từ những năm 2007-2008 và ngày càng trầm trọng, muốn ổn định trở lại có lẽ phải chờ đến năm 2014 hoặc 2015.
Ông Paul John Jewell: Các chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ của Chính phủ đạt những hiệu quả đáng kể về các chỉ số kinh tế vĩ mô nhưng việc duy trì đà tăng trưởng này trong năm tới là điều không dễ dàng. Các doanh nghiệp châu Âu lo ngại rằng tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam vốn đã khó khăn sẽ còn tiếp tục suy giảm trong sáu tháng đầu năm 2013. Còn khá nhiều dấu hiệu tiêu cực khó giải quyết ngày một ngày hai như sự sụt giảm lực lượng lao động, giá bất động sản sụt giảm và nguy cơ phá sản trong doanh nghiệp tăng...
Hiện những ngành kinh tế nào được xem là có tiềm năng phát triển?
Ông Paul John Jewell: Hầu hết các ngành kinh tế Việt Nam đều có tiềm năng và được các thành viên của EuroCham đầu tư trong thời gian qua. Chúng tôi cũng hy vọng sẽ tăng nguồn vốn đầu tư cả về chất và lượng vào nhiều ngành kinh tế hơn nhưng tình hình kinh tế chưa có những cải thiện đáng kể khiến chúng tôi vẫn còn e ngại trong việc mở rộng kinh doanh.
Ông Herb Cochran: Những ngành mà Amcham cho là rất tiềm năng phát triển là ngành hàng tiêu dùng, ngành sản xuất hiện đại xuất khẩu trên toàn thế thới (như Intel, GE, Honeywell, Jabil, Samsung, Foxconn, Nidec, Canon...) và ngành dịch vụ. Ngày càng nhiều công ty Mỹ đầu tư nguồn vốn vào ngành công nghiệp hiện đại Việt Nam với các sản phẩm tạo giá trị gia tăng xuất khẩu.
Ông Yasuzumi Hirotaka: Các nhà đầu tư Nhật Bản thì rất chú trọng vào ngành công nghiệp phụ trợ (ngành hỗ trợ việc lắp ráp các sản phẩm cuối cùng thông qua cung cấp các bộ phận chi tiết, linh kiện sản phẩm hàng hóa trung gian khác) và ngành công nghiệp dịch vụ. Hình thức đầu tư không còn thiên về gia công xuất khẩu như trước đây mà mở rộng đầu tư theo nhu cầu trong nước và thị trường ASEAN.
Bên cạnh đó thì những ngành nào được cho là kém hấp dẫn nhất hiện nay?
Ông Herb Cochran: Những ngành không còn hấp dẫn như trước đây là: may mặc, giày da, đồ nội thất... vì chi phí lao động tăng và bị cạnh tranh gay gắt với các thị trường Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Mexico, Campuchia và Myanmar.
Những vấn đề đáng lo ngại của kinh tế Việt Nam
Những vấn đề cơ bản nhất gây cản trở sự phát triển kinh tế Việt Nam là gì?
Ông Herb Cochran: Trong tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn của Việt Nam, hai vấn đề nghiêm trọng nhất là nợ xấu tràn lan và doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Ngoài ra, Chính phủ quản lý quá gay gắt hoạt động của doanh nghiệp như: việc định giá, giới hạn hàng nhập khẩu, giới hạn doanh nghiệp được phép kinh doanh, chương trình được phát sóng..., gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài.
Ông Yasuzumi Hirotaka: Theo JETRO thì còn khá nhiều vấn đề trong nền kinh tế Việt Nam gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế. Dễ thấy nhất vấn đề cơ sở hạ tầng chưa quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, sự thay đổi liên tục và không thống nhất trong các chính sách cũng gây trở ngại lớn cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là ngành công nghiệp xe hơi.
Những bất cập trong chính sách, pháp luật Việt Nam là một trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế không?
Ông Paul John Jewell: Tôi cũng đồng ý rằng vấn đề nằm ở các văn bản pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các văn bản quy định hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài. Chẳng hạn như pháp luật về luật sư thông qua ngày 20-11 năm nay, giới hạn hoạt động của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam. Điều luật này chẳng khác nào một phản ứng nhằm giảm nguồn đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
Ông Paul John Jewell,
Giám đốc điều hành Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham)
Ông Yasuzumi Hirotaka: Ngoài ra, khó khăn của nền kinh tế cũng xuất phát từ vấn đề ngân hàng như: thông tin ngân hàng không minh bạch, cải cách ngân hàng, nợ xấu...
Với rất nhiều trở ngại như trên thì liệu Việt Nam còn có thể là một điểm đến hấp dẫn cho các công ty nước ngoài?
Ông Paul John Jewell: Một điều cần khẳng định là các doanh nghiệp châu Âu ngày càng cảm nhận rõ Việt Nam sẽ là trung tâm ASEAN, có thể xây dựng thành một trung tâm kinh tế phục vụ tốt cho cả khu vực. Nhưng điều này khó thành hiện thực khi chưa giải quyết được những vấn đề mà chúng tôi đã đưa ra trong Sách trắng (Whitebook 2013) về"Các vấn đề thương mại, đầu tư và kiến nghị". Trong đó, các vấn đề lớn là tái cấu trúc ngân hàng, giá cả, vai trò của doanh nghiệp nhà nước và quyền sở hữu trí tuệ.
Giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam từ nhà đầu tư nước ngoài
Những giải pháp nào nên được thực hiện để thay đổi màu sắc của bức tranh về kinh tế Việt Nam trong năm tới?
Ông Yasuzumi Hirotaka: Không có cách nào khác hơn là cố gắng thay đổi để vừa phát triển nội lực vừa thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam hiện đang được xem là một điểm đến có nhiều thuận lợi trong khu vực nhưng liệu những ưu điểm này sẽ duy trì được bao lâu? Việt Nam nên gia tăng tính thuận lợi trong đầu tư, tạo sức hấp dẫn với doanh nghiệp nước ngoài.
Làm cách nào để gia tăng tính thuận lợi trong đầu tư?
Ông Yasuzumi Hirotaka: Bằng cách xúc tiến giải quyết các vấn đề sau: Đầu tiên là tháo gỡ bớt các quy định giới hạn tính tự do trong các hoạt động doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là ngành công nghiệp ôtô. Thứ hai, Chính phủ tích cực hơn trong việc thực thi các chính sách, chiến lược phù hợp với từng ngành công nghiệp. Các bộ, ngành không nên phó mặc cho hoạt động của các doanh nghiệp riêng lẻ mà cần có chiến lược phát triển quy hoạch nhiều ngành công nghiệp. Thứ ba là thực hiện một cách hiệu quả và có kế hoạch về cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, vấn đề cần giải quyết cấp bách nhất vấn nạn tham nhũng. Chúng tôi hy vọng Việt Nam sẽ nỗ lực giải quyết các vấn đề trên càng nhanh càng tốt vì thời điểm năm 2015 không còn xa.
Còn theo cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ và châu Âu thì sao?
Ông Herb Cochran: Theo AmCham, chính phủ nên lắng nghe ý kiến đóng góp của các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Thực tế cho thấy rất nhiều ý kiến đóng góp của chúng tôi lẫn các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài khác đều chưa được Chính phủ lưu tâm thực hiện. Một số kiến nghị của chúng tôi gồm:
- Cải thiện giáo dục và đào tạo để các sinh viên tốt nghiệp các trường đại học và cao đẳng là lực lượng lao động chất lượng, có thể làm việc ngay.
- Cải thiện chất lượng dịch vụ hải quan, nhất là dịch vụ hải quan điện tử (e-Customsin). Hàng ngàn container từ cảng Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu) qua Thái Bình Dương đến bờ Tây Hoa Kỳ chỉ mất 15 đến 16 ngày trong khi thủ tục hải quan mất đến 21 ngày.
- Phát triển chất lượng các đơn vị cung ứng trong nước.
- Thay vì sử dụng các mẫu tham vấn kiến nghị từ doanh nghiệp, Chính phủ nên có những cuộc nói chuyện, trao đổi trực tiếp với doanh nghiệp trong nước lẫn nước ngoài.
- Nỗ lực hết mình để loại bỏ tham nhũng - vấn đề nghiêm trọng nhất của Việt Nam.
Ông Herb Cochran,
Giám đốc Điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) tại TP. Hồ Chí Minh
Ông Paul John Jewell: Như tôi đã nói, những vấn đề mà các thành viên EuroCham muốn Chính phủ lưu tâm để giải quyết là giá cả, vai trò của doanh nghiệp nhà nước và quyền sở hữu trí tuệ.
- Về giá cả: Chính phủ có thái độ không nhất quán trong vấn đề giá thị trường tự do và trong nhiều ngành. Trong khi doanh nghiệp nước ngoài muốn tự định giá theo chi phí sản xuất và sự cạnh tranh thì việc kiểm soát giá của Chính phủ tạo ra lo lắng cho nhà đầu tư.
- Về vai trò doanh nghiệp nhà nước: Đóng góp của doanh nghiệp nhà nước ước tính đạt khoảng 40% ngân sách quốc gia, thường được nhận những ưu đãi trong vay vốn, tiếp cận đất đai, các mục tiêu lợi nhuận hạn chế... nhưng lại hoạt động không hiệu quả, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế chung.
- Về quyền sở hữu trí tuệ: Việt Nam mong muốn chuyển từ nền kinh tế chuyên sâu về lao động sang nền kinh tế công nghệ và các giá trị gia tăng. Nhưng các nhà đầu nước ngoài sẽ không muốn mang công nghệ của họ vào Việt Nam một khi vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chưa được thực hiện.
Lúc nào EuroCham cũng sẵn sàng đóng góp ý kiến để Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tăng chất lượng đầu tư dài hạn từ nước ngoài. Ngược lại, Chính phủ Việt Nam cần có những tín hiệu rõ ràng thể hiện khát vọng phát triển kinh tế trong tương lai qua thỏa thuận Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và giải quyết sớm những vấn đề nêu trên.

.