Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

Biển Đông: Vì sao Việt Nam đấu trí với Trung Quốc bằng đàm phán ?

Khi Trung Quốc gây hấn, cố tình dùng nhiều tiểu xảo hòng chiếm Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam, thì một số người xưng là “yêu nước”, đòi hỏi lãnh đạo Việt Nam dùng vũ lực để đối phó lại. Tuy nhiên, lãnh đạo Việt Nam lại dùng chiến thuật “đàm phán” để đáp trả!

Cảnh sát biển Việt Nam
Bất mãn trước “nước cờ” này, nhiều Blog xuyên tạc, lếu láo bảo rằng “lãnh đạo Việt Nam bán nước cho Tàu nên không dùng vũ lực”. Họ cứ muốn lãnh đạo phải dùng vũ lực nhưng họ không biết rằng, lúc này đàm phán chính là nước cờ thiên biến vạn hóa, là sức mạnh tối cao, hữu hiệu để luật pháp quốc tế về biển Đông hiện diện đúng nghĩa ở đất nước mệnh danh là bậc thầy gây hấn này!
Có thể nói, đàm phán chính là chìa khoá thành công trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ! Vì sao lại như vậy, lời nói vì sao có sức mạnh hơn vũ khí? Đơn giản bởi vì: nếu như Việt Nam đàm phán thành công với Trung Quốc, không những Việt Nam sẽ đòi lại những gì thuộc về đất nước hình chữ S mà còn mở ra cơ hội mới giúp Việt Nam xây dựng, duy trì và củng cố những mối quan hệ hợp tác lâu dài với nước này. Nếu như đi nước cờ này, Việt Nam sẽ không phải hy sinh xương máu người dân. Không có chiến tranh thì người dân Việt sẽ sống bình yên và không có cảnh gia đình tan nát. Việt Nam sẽ không mất mát, hư tổn bất cứ điều gì.

Trường Sa
Đó là mặt phải của vấn đề. Còn mặt trái đó là nếu như không cẩn thận, những sai lầm trong cuộc đàm phán có thể khiến Việt Nam chịu thiệt thòi, không lấy lại những gì đã mất mà thậm chí có thể dẫn đến mất luôn quần đảo đang có!
Xưa nay Trung Quốc ngang ngược, rất nhiều lần đi ngược lại cam kết DOC về biển Đông và thường xuyên dở chiêu trò biến thủ phạm thành nạn nhân. Thế nên việc muốn Trung Quốc chịu thực hiện theo luật pháp quốc tế là điều không phải dễ. Đối phó với Trung Quốc phải cần 1 quá trình chuẩn bị và đàm phán lâu dài. Người đàm phán thông minh phải là biết tận dụng tối đa những điều kiện có trong tay để vận dụng một cách linh hoạt trong mọi điều kiện. Phải chuẩn bị tài liệu, chứng cứ và biết nắm bắt cơ hội thì đàm phán mới nắm chắc được thành công.
Rất nhiều người ngờ vực, đặt câu hỏi rằng: nếu như “đàm phán” là phương pháp tối ưu vậy thì vì sao Trung Quốc còn mãi gây hấn, vẫn khăng khăng chiếm đảo của Việt Nam? Dĩ nhiên đàm phán là quá trình có khởi điểm và kết điểm (điểm chết). Trong bất cứ cuộc đàm phán nào, phải gần đến điểm chết mới có được kết quả. Nếu như để cho Trung Quốc biết điểm chết của ta thì ta sẽ không có lợi. Họ sẽ nấn ná, đến gần điểm chết mới tung con ác chủ bài buộc ta nhượng bộ. Vì vậy mà ta phải nhẫn nại, giữ bình tĩnh khi đấu trí với Trung Quốc. Dục tốc bất đạt trong trường hợp này, nghĩa là vậy!
Sở dĩ Trung Quốc không thực hiện đúng cam kết DOC về biển Đông và đi gây hấn, tạo áp lực ngày một nhiều hơn với các nước trong khu vực cốt là để Việt Nam rơi vào thế bị động. Trung Quốc đang chơi chiến lược “mèo vờn chuột”, đùa giỡn để các nước nhỏ hơn nóng giận, thiếu lý trí, dùng vũ lực chống lại. Đợi có thế, vậy là Trung Quốc sẽ nhân danh “đáp trả” lại!
Trung Quốc đang chơi trò chiến thuật kinh điển mà các nhà đàm phán hay áp dụng là kéo dài thời gian, làm cho “chính chủ” rơi vào thế bị động và tự tìm đến điểm kết thúc. Đây là chiêu trò cũ rích mà Trung Quốc thực hiện, thế nhưng nếu như lãnh đạo Việt Nam không sáng suốt sẽ chẳng thể nào nhận ra tiểu xảo này của Trung Quốc!
Đó cũng chính là hàm ý mà lãnh đạo nước ta lại chọn đàm phán để đáp trả Trung Quốc chứ không chọn vũ lực. Nên nhớ rằng, bên cạnh Việt Nam còn có nhiều nước láng giềng, còn rất nhiều đồng minh và bạn bè quốc tế ủng hộ thế nên không dại gì mà ta lại dùng vũ lực với Trung Quốc lúc này!  Đàm phán tuy là con dao hai lưỡi thế nhưng Việt Nam đang nắm đằng cán, đang nắm lý lẽ thì làm sao Trung Quốc có thể đổi trắng thay đen cho được?!
Đi một nước cờ hàm ẩn rất nhiều nước bí. Nhìn lại cả quá trình dân tộc Việt Nam phản đối hành động ngông cuồng của Trung Quốc khi xâm phạm lãnh thổ đất Việt mới thấy rằng lãnh đạo ta rất linh hoạt, phân tích sáng suốt tình hình thời cuộc. Lãnh đạo đã chọn nước tối ưu đó là đoàn kết cùng quốc tế, những nước đồng minh ghì Trung Quốc đến với các cuộc đàm phán để đẩy Trung Quốc đến thế bí. Nếu như đưa Trung Quốc “tâm phục khẩu phục” ngồi vào bàn đàm phán thì chắc chắn ưu thế sẽ thuộc về Việt Nam. Đến lúc đó, Việt Nam sẽ lấy lại tất cả những gì mà Trung Quốc đang chiếm của Việt Nam. Đó là điều tất yếu, bởi Việt Nam có đủ lý lẽ và bằng chứng để chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa, vùng trời – vùng biển đó hoàn toàn là của Việt Nam!
Xem lại lịch sử, 1972 Mỹ dùng sức ép Quân sự trên bàn đàm phám nhưng không thành và Mỹ đã dùng tất cả những gì có thể để đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá, Khi đó ai cũng nghĩ trên bầu trời B52 là bất khả chiến bại nhưng kết quả thì sao. Quân sự và chuyện bí mật quốc gia không phải để ai cũng biết, chúng ta đang sống trên mảnh đất có truyền thống này thì hãy giữ vững niềm tin.
Lúc này nếu đánh liệu có chắc thắng ko? Nhưng về lý chúng ta đúng thì đàm phán là chắc thắng. Vậy nên chọn cái nào : Đàm phán là giải pháp hòa bình tuy nhiên trong lúc chờ ngồi đàm phán với Trung Quốc, Việt Nam cũng phải phản ứng cứng rắn với nước láng giềng không nên để họ cứ làm càn. Tích cực đầu tư cho hải quân không quân. Tập trận trên biển đông cũng nên có chút uy lực. Việt Nam có lực lượng quân đội hùng mạnh anh dũng phải cho họ biết điều đó.
 CẢ NGÀN NĂM NAY CỨ MỖI LẦN TQ XUẤT QUÂN LÀ 1 LẦN THẤT BẠI....
QĐND VIỆT NAM "NỖI KHIẾP SỢ CỦA QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC"

BÀI VIẾT THỂ HIỆN QUAN ĐIỂM CỦA ANH NGỮ THỜI BÁO VÌ VẬY 1 SỐ THÔNG TIN VẪN CHƯA CHUẨN XÁC

Epoch Times (23 Jan 2013)

Chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam đã công bố thực thi Luật biển Việt Nam, trong đó tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền nước CHXHCN Việt Nam. Sự việc này tương tự như động thái của Trung Quốc trong tháng 6 năm 2012 khi công bố thành lập thành phố Tam Sa quản lý các quần đảo ở vùng quần đảo ở biển Đông Việt Nam, chính thức đưa các quần đảo này vào chủ quyền của Trung Quốc…

Ngay bây giờ, Việt Nam và Philippines đã đạt được thỏa thuận về hợp tác hàng hải, mục đích là để cùng nhau đối phó với Trung Quốc, hầu hết các nước ASEAN đều đứng về phía Việt Nam và Philippines. Đồng thời, chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ động liên hệ móc nối với các cường quốc thế giới.

Trong những năm gần đây, Việt Nam tăng cường mối quan hệ với các nước đồng minh truyền thống nhất là Nga, và mời Nga quay trở lại Vịnh Cam Ranh, thành lập tại đây trung tâm bảo dưỡng trang thiết bị an ninh kỹ thuật hàng hải chung, Nga cung cấp những khoản tiền lớn để xây dựng một cơ sở tàu ngầm tại Việt Nam; Việt Nam vào 6 tàu ngầm Kilo của Nga, chiếc tàu ngầm đầu tiên được mang tên Hà Nội, đã được hạ thủy cuối năm 2012, không những thế Việt Nam còn tiếp tục mở rộng mua sắm vũ khí của Nga.

Việt Nam cũng đã cải thiện đáng kể mối quan hệ với kẻ thù cũ là Hoa Kỳ. Trong năm 2012, Bộ trưởng Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã đến thăm Việt Nam, họp bàn về khu vực an ninh và hợp tác quốc phòng, và đạt được sự đồng thuận rộng rãi. Việt Nam mời lực lượng Hải quân Mỹ thường xuyên đến Vịnh Cam Ranh và cho phép các tàu hậu cần thường gé Vịnh Cam Ranh, và hứa sẽ cung cấp các dịch vụ bảo trì sửa chữa cho các tàu hậu cần của Mỹ, Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức tập trận chung với Hoa Kỳ, hoặc tham gia các cuộc diễn tập đa phương do Mỹ dẫn đầu.

Vịnh Cam Ranh nằm phía Đông Nam của Việt Nam, đây như một “pháo đài chiến lược,” có thể kiểm soát cả tuyến đường đến Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Cảng được bao quanh bởi các dãy núi ở ba mặt, một lối ra biển, lối vào hẹp, địa hình khó khăn, dễ dàng phòng thủ, có thể là nơi neo đậu cho khoảng 40 tàu lớn trọng tải dưới 100,000 tấn. Là một nơi được các cường quốc quân sự chọn làm nơi đồn trú, như Sa hoàng Nga (1905), Pháp (cuối thế kỷ 19, thế kỷ 20), Nhật Bản (1940 và 1945), Hoa Kỳ (1965-1973), Liên Xô và Nga (1979-2002). Ngày nay, Việt Nam đang chào mời cả hải quân Nga và Hải quân Hoa Kỳ quay trở lại và thay phiên nhau đóng quân tại Vịnh Cam Ranh, rõ ràng là để chống lại Trung Quốc.

Việt Nam cũng đã siết chặt quan hệ với Nhật Bản để xây dựng một liên minh chiến lược. Trong tháng 7 năm 2012, Phó Thủ tướng Việt Nam đã thăm Nhật Bản, công khai kêu gọi Nhật Bản và Việt Nam tăng cường hoạt động ở vùng biển Đông Việt Nam để đảm bảo quyền tự do hàng hải ở châu Á. Trong tháng 1 năm 2013, Thủ tướng Nhật Bản đã đến thăm Việt Nam nhằm mục đích để thúc đẩy liên minh Nhật Bản-Việt Nam. Nhật Bản đã trở thành một nước tài trợ và đầu tư lớn nhất cho Việt Nam.

Năm 2012, tàu chiến hải quân Ấn Độ thăm Việt Nam, đã được mời đồn trú tại Nha Trang, Việt Nam, tháng 1 năm 2013, tàu chiến hải quân Ấn Độ thăm lại Việt Nam và gé thăm cảng Đà Nẵng đây cũng là một pháo đài quân sự của Việt Nam. Ấn Độ và Việt Nam tiếp tục gia hạn hợp đồng để tiếp tục thăm dò và khai thác dầu khí ở vùng biển Đông Việt Nam. Hợp tác ba bên Nga - Ấn Độ - Việt Nam là một " tam giác sắt" hợp nhất, Bắc Kinh cần thận trọng.

Việt Nam là nước giỏi nhất hợp nhất được hai thái cực quyền lực nhất thế giới, cùng lúc đó cả bốn cường quốc quyền lực như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ, đã và đang hỗ trợ đầy đủ cho Việt Nam để làm đối trọng với Trung Quốc. Theo phân tích của truyền thông Nga: Trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước duy nhất đối đầu mạnh mẽ nhất với Trung Quốc và sẽ tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng hoặc một cú đánh lớn vào Trung Quốc.

Dân số Việt Nam khoảng hơn 90 triệu người và là một nước lớn ở khu vực Đông Nam Á. Trong lịch sử, người Việt Nam rất dũng cảm và đấu tranh quyết liệt. Mỹ một nước đã từng có nhiều cuộc tham chiến ở nước ngoài cũng phải thừa nhận rằng chỉ họ chỉ thua ở Việt Nam.

Năm 1979 Campuchia đưa quân xâm lược Việt Nam và đã bị quân đội Việt Nam giáng cho những đòn nặng nề và phải vội vã rút quân. Cũng trong năm đó trong một thời gian ngắn hơn hai tuần, Quân đội Trung Quốc đã phải trả giá bằng cái chết của hàng chục nghìn binh lính chết và bị thương, quả là ngoạn mục. Và một cuộc chiến tranh với Việt Nam một lần nữa lại ám ảnh quân đội Trung Quốc vì vẫn không có cơ hội để chiến thắng, thậm chí cả khi quân đội Trung Quốc có thể có ưu thế trên không và trên biển, nhưng cũng không thể tránh để bị quân đội Việt Nam đánh bại. Các chuyên gia quân sự quốc tế bình luận: quân đội Việt Nam có khả năng đánh chìm cả tàu sân bay hoặc các tàu chiến và đánh bại cả lực lượng hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, theo nhận xét của các chuyên gia quân sự thì ngoài sức mạnh chiến đấu cực kỳ lão luyện trên mặt đất, nếu sức mạnh chiến đấu của hải quân và không quân đủ năng lực, quân đội Việt Nam có thể mở những cuộc tấn công trên đất liền vào Quảng Tây, Vân Nam dọc theo biên giới với Trung Quốc, Trung Quốc có cả hai khó khăn để giải quyết.
_______________
BÀI VIẾT THỂ HIỆN QUAN ĐIỂM CỦA ANH NGỮ THỜI BÁO VÌ VẬY 1 SỐ THÔNG TIN VẪN CHƯA CHUẨN XÁC

Dư luận phê phán chính sách biển ngang ngược của Trung Quốc


Chủ trương xây dựng Trung Quốc thành cường quốc biển đang là nguyên nhân gây ra sự căng thẳng, mối quan ngại và thúc đẩy các nước hợp tác chống lại mưu đồ của Trung Quốc.

Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ đại dương. Biển chiếm 71% diện tích bề mặt trái đất, gắn bó khăng khít với sự tồn tại của con người, cũng liên quan chặt chẽ tới sự hưng suy của quốc gia. Nhìn lại lịch sử thế giới, rất nhiều nước trên thế giới đều đã trải qua con đường dựa vào biển để trỗi dậy, nhờ vào biển để cường thịnh. Các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Nhật Bản, Mỹ trỗi dậy đều từ biển. Bước vào thế kỷ 21, địa vị của biển trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao quốc tế lại càng rõ rệt hơn. Tình hình đặc trưng là xung đột và đấu tranh giành giật không gian biển và nguồn lợi biển tăng mạnh trong thế kỷ 21.

Bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của Tổ quốc Việt Nam
Trung Quốc trong lịch sử từ xa xưa đến tận những năm 1980 là cường quốc lục địa. Bốn hiện đại hóa đã thức tỉnh Trung Quốc trong cuộc chạy đua chiếm lĩnh biển. Trung Quốc đã không bỏ phí một chút thời gian nào. Sự kiện nổi bật mới đây là Đại hội 18 ĐCS Trung Quốc đã chính thức hóa chiến lược biển, khi tuyên bố: Trung Quốc quyết tâm “nâng cao năng lực khai thác tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường sinh thái biển, kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích biển của quốc gia, xây dựng cường quốc biển”. Mục tiêu là mở rộng không gian hoạt động cho lực lượng hải quân Trung Quốc và tận lực khai thác tài nguyên, hải sản biển để nuôi sống 1,3 tỷ dân Trung Quốc.
Trong hành động, vô số thế lực chính trị và kinh tế Trung Quốc đã lợi dụng những căng thẳng về lãnh thổ để phục vụ những lợi ích riêng của họ, điều này đã gây sức ép, buộc các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh lên gân lập trường. Theo báo Le Monde Diplomatique (Pháp), nhiều tác nhân Trung Quốc tham gia các phi vụ làm ăn trên Biển Đông, được gọi là “9 con rồng cướp biển”, dựa theo truyền thuyết. Trên thực tế, con số các tác nhân vượt xa so với số lượng con vật huyền thoại kia. Trong số đó có các chính quyền địa phương, Hải quân, Bộ Nông Nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nước, các lực lượng an ninh, thuế quan hay Bộ Ngoại giao.
Chính quyền của các vùng ven biển Hải Nam, Quảng Tây và Quảng Đông lại ra sức tìm đầu ra cho các sản phẩm xí nghiệp của họ vì nếu thành công, chỗ đứng của họ trong bộ máy Nhà nước sẽ được đảm bảo. Chừng nào họ càng bày tỏ cứng rắn, họ còn được giao quyền quản lý công việc địa phương. Những ham muốn càng được kích thích bởi sự kết hợp của một chính sách tăng trưởng với một quyền tự trị lớn hơn của các nhà chức trách địa phương. Đó là lý do tại sao họ khuyến khích các ngư dân của nước họ xâm nhập sâu hơn nữa vào các vùng biển tranh chấp, đặc biệt là bằng cách bắt ép các ngư dân phải hiện đại hóa tàu bè của mình và trang bị các hệ thống dò đường bằng vệ tinh. Việc ưu tiên cấp giấy phép đánh cá cho các tàu đánh cá lưới rê cỡ lớn nhất chính là một sự kêu gọi khác theo hướng này.
Nội hàm “cường quốc biển” của Trung Quốc là gì?
Báo Hải dương Trung Quốc số ra gần đây đăng bài viết của Cục trưởng Cục hải dương quốc gia Trung Quốc về một số vấn đề cần xem xét liên quan đến công tác xây dựng cường quốc biển theo tinh thần mà Đại hội 18. Ngày nay Trung Quốc xác định họ vừa là nước lớn lục địa, cũng vừa là nước lớn về biển.
Nội hàm “cường quốc biển” của Trung Quốc gồm 5 phương diện là nhận thức về biển, sử dụng biển, sinh thái biển, quản lý biển và biển hài hòa.

Trung Quốc vươn tới tận Nam Mỹ trong hoạt động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế trên biển của nước khác: Tàu cảnh sát biển Argentina đang áp tải ra khỏi hải phận hai tàu đánh cá Trung Quốc đánh bắt hải sản bất hợp pháp tại vùng biển của nước này hồi cuối năm 2012
Về nâng cao nhận thức về biển, giới lãnh đạo Bắc Kinh chủ trương tăng cường nghiên cứu khoa học biển. Họ chủ trương tăng cường nghiên cứu gien sinh vật dưới biển sâu, nâng cao trình độ nghiên cứu công nghệ thăm dò biển. Trung Quốc chủ trương đào tạo nhân lực mới về công nghệ biển, quản lý ngành biển, nhân tài nghiên cứu cơ sở về biển. Trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài mũi nhọn theo mô hình sáng tạo, hoàn thiện thể chế, cơ chế về công tác nhân tài biển. Bắc Kinh chủ trương mở rộng công tác văn hóa biển và tuyên truyền về biển, mở rộng diện phổ cập kiến thức về khoa học công nghệ biển, kinh tế biển và pháp luật biển, đào tạo, tích lũy và phát huy tinh thần biển.
Về sử dụng biển, chú trọng phát triển mở mang kinh tế biển, trù tính chung cả đất liền và biển, hoàn thiện hệ thống phân định khu chức năng biển cấp quốc gia và cấp tỉnh, làm tốt quy hoạch phát triển ngành nghề biển, quy hoạch kinh tế biển, quy hoạch bảo vệ biển đồng thời với những quy hoạch khác, liên kết phối hợp giữa các khu quy hoạch. Nhằm nâng cao trình độ khai thác sử dụng biển, xoay quanh một số mặt như: Cải tạo, nâng cấp ngành nghề biển, cải thiện, khắc phục những khó khăn, bế tắc gặp phải trong quá trình đào tạo con người, giúp đỡ ngành nghề biển mới nổi, mở rộng phối hợp giữa sản xuất, học tập, nghiên cứu, thúc đẩy phát triển kinh tế biển vừa tốt vừa nhanh; khai thác nguồn tài nguyên sinh vật biển, tập trung đột phá vào kỹ thuật đánh bắt cá biển, kỹ thuật nuôi trồng trong môi trường nước biển, kỹ thuật chăm sóc cây trồng có khả năng chịu mặn, làm cho tỉ lệ đóng góp của kỹ thuật trong khai thác sử dụng biển tiếp tục được nâng cao.
Cuộc xâm lấn trên giấy tờ – hành động cướp đất mới nhất của Bắc Kinh
Báo Dân tộc của Thái Lan mới đây đăng bài “Cuộc xâm lấn trên giấy tờ của Trung Quốc”, trong đó bình luận rằng một liên minh ứng phó đang hình thành để phản đối hành động cướp đất mới nhất của Bắc Kinh qua việc in bản đồ vào hộ chiếu Trung Quốc. Việt Nam, Philippines, Ấn Độ và Đài Loan đã kịch liệt phản đối hộ chiếu mới của Trung Quốc. Giáo sư nghiên cứu Đông Á Bruce Jacobs của Trường đại học Monash Australia nhận xét: “Bản đồ này khẳng định bản tính ngang ngược ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc đưa ra tuyên bố đối với các vùng lãnh hải tranh chấp”. Mỹ cho rằng bản đồ trong hộ chiếu mới là “nguyên nhân gây ra sự căng thẳng và mối lo ngại” trong số các nước tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Việt Nam và Philippines đã từ chối đóng dấu thị thực cho các hộ chiếu mới của Trung Quốc và thay bằng việc tạo ra một mẫu thị thực riêng, trong khi Đài Loan thì bác bỏ biên giới biển trong bản đồ nói trên.
Ấn Độ, nổi giận với bản đồ thể hiện 2 bang Arunachal Pradesh và Aksai Chin ở khu vực Himalaya thuộc lãnh thổ Trung Quốc, đang cấp thị thực cho công dân Trung Quốc với dấu nổi in hình bản đồ riêng của New Delhi.
Sau việc đột ngột thúc đẩy hành động của Trung Quốc cướp đất ở Biển Đông, một liên minh an ninh đặc biệt đang nổi lên giữa Nhật Bản và các nước ASEAN tuyên bố chủ quyền, gồm Việt Nam và Philippines, nhằm ngăn chặn hành động xâm lược hung hăng của Trung Quốc thông qua ngoại giao hoặc các biện pháp có khả năng khác. Giám đốc Học viện nghiên cứu Đông Á Yoshide Soeya thuộc Trường đại học Keio Tokyo cho biết: “Chúng tôi muốn xây dựng một liên minh ứng phó của riêng mình tại châu Á nhằm ngăn chặn việc Trung Quốc đang lấn lướt”.

Trung Quốc lo ngại Việt Nam áp dụng Luật Biển

Trong khi ngang nhiên đưa tàu hải giám ra tuần tra vùng tranh chấp đồng thời thực thi một luật bị cộng đồng quốc tế phản đối, Trung Quốc vẫn ngang ngược yêu cầu Việt Nam không được áp dụng Luật Biển mới. 
Sau khi được văn phòng Chủ tịch nước công bố ngày 16/7/2012, hôm 1/1/2013, Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực thi hành. Luật này sẽ giúp tăng cường cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.
Bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của Tổ quốc Việt Nam
Bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của Tổ quốc Việt Nam
Với 7 Chương và 55 Điều, Luật Biển Việt Nam có đầy đủ các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam…
Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển theo đúng tinh thần UNCLOS – bản “hiến pháp đại dương”, buộc mọi tổ chức, cá nhân phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan khi hoạt động trong vùng chủ quyền của Việt Nam.
Phản ứng trước việc Luật Biển của Việt Nam chính thức có hiệu lực, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hua Chunyang đã ra một tuyên bố bày tỏ sự “quan ngại và kêu gọi Việt Nam kiềm chế không đưa ra bất kỳ hành động nào nhằm làm phức tạp và leo thang căng thẳng giữa hai nước”. Nữ phát ngôn viên Trung Quốc còn trắng trợn tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.
Những phát biểu phi lý và trắng trợn trên được người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc được đưa ra khi mà chính Trung Quốc đang một mình “khuấy đảo” Biển Đông. Đúng ngày Luật Biển của Việt Nam chính thức có hiệu lực, Trung Quốc đã ngang nhiên đưa hai tàu hải giám ra gần vịnh Bắc Bộ ở khu vực tranh chấp trên Biển Đông để tuần tra.
Trắng trợn hơn, Trung Quốc còn bắt đầu thực thi luật mới cho phép cảnh sát nước này chặn và bắt tàu của các nước khác ở vùng biển tranh chấp.
Trung Quốc lo ngại Việt Nam áp dụng Luật Biển (Ảnh minh họa)
Trung Quốc lo ngại Việt Nam áp dụng Luật Biển (Ảnh minh họa)
Điều đáng “kinh ngạc” là Trung Quốc phản đối và bày tỏ lo ngại với Luật Biển của Việt Nam khi mà luật này được xây dựng tương thích cao với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển – UNCLOS 1982. Tính tương thích này thể hiện rõ trong điều 2.2 của Luật Biển: Trường hợp quy định của luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Mặt khác, theo luật quốc tế, khi phê chuẩn UNCLOS năm 1994, Việt Nam cũng như các quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện đúng các cam kết của mình đối với các quy định của luật Biển. UNCLOS 1982 là công ước khung quan trọng nhất thiết lập một trật tự pháp lý mới công bằng trên biển, bảo đảm tốt nhất quyền lợi biển của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác.
Luật Biển của Việt Nam tôn trọng luật quốc tế và không bị các nước phản đối. Trong khi đó, Trung Quốc lại thực thi một điều luật mới bị một loạt nước phản đối dữ dội. Theo luật này, lực lượng cảnh sát ở tỉnh Hải Nam, phía nam Trung Quốc, được quyền chặn, lên lục soát và chiếm giữ những tàu nước khác mà nước này tuyên bố là “đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc một cách bất hợp pháp”.
Cảnh sát tỉnh Hải Nam cũng được quyền bắt tàu nước khác phải chấm dứt hành trình và đổi hướng khi đi vào vùng tranh chấp mà Trung Quốc tự nhận là thuộc chủ quyền của mình. Trung Quốc đã công bố luật trên từ hồi tháng 11 năm ngoái và nó đã vấp phải sự chỉ trích dữ dội không chỉ từ phía các nước có tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc mà cả các nước khác trong khu vực và các nước phương Tây.
Trung Quốc đòi chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông, nếu thực thi luật này thì khả năng tàu thuyền các nước đụng độ với hải quân Trung Quốc là điều rất dễ xảy ra.
Philippines cho rằng Trung Quốc “đã đi quá xa” trong khi Singapore, Mỹ và ASEAN bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về luật mới của Trung Quốc. Các nhà ngoại giao hàng đầu của ASEAN cảnh báo về khả năng xảy ra đụng độ trên biển. Trong khi đó, Mỹ tuyên bố sẽ yêu cầu Trung Quốc phải giải trình về điều luật trên.
Với những diễn biến ở trên, chắc chắn ai cũng có thể nhận thấy rõ, nước nào mới là nhân tố gây căng thẳng và làm leo thang tình hình ở Biển Đông. Việt Nam luôn thể hiện một lập trường chắc chắn, kiên định trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông, tuân thủ nghiêm túc UNCLOS 1982 và không gây căng thẳng trong khu vực.

Luật biển Việt Nam: Tuyên ngôn về chủ quyền biển đảo


Bắt đầu từ ngày 01/01/2013, Luật biển Việt Nam có hiệu lực thi hành. Việc Luật biển Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua trước đó đã thỏa lòng mong mỏi, đợi chờ của bao thế hệ người Việt Nam. Không những dân tộc Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài mà dư luận quốc tế cũng đều ủng hộ mạnh mẽ.
Nếu như “bài thơ thần” của Lý Thường Kiệt, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là tuyên ngôn về chủ quyền, độc lập của quốc gia thì Luật biển Việt Nam cũng là tuyên ngôn về chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Để Luật biển Việt Nam có sức mạnh thực sự thì điểm quyết định nhất là phải chuẩn bị như thế nào để có đủ khả năng thực thi Luật biển Việt Nam một cách nghiêm túc.
Máy bay CaSa 212 được trang bị hệ thống tuần thám MS 6000 của CSB VN
Máy bay CaSa 212 được trang bị hệ thống tuần thám MS 6000 của CSB VN
Ngày nay, thế của ta đã khác, lực của ta đã đổi. Việt Nam ta hơn lúc nào hết sẵn sàng đem hết tinh thần, nghị lực, tính mạng, tài sản, để bảo vệ chủ quyền biển đảo, chúng ta có đủ khả năng đương đầu với mọi thách thức trên biển. Đó là cơ sở, nguyên nhân, động lực cho Luật biển Việt Nam ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013.
Để Luật biển Việt Nam có tính thực thi là cả một sự chuẩn bị thế và lực cho đất nước, trong đó nổi bật nhất là Cảnh sát biển Việt Nam – lực lượng nòng cốt thực thi Luật biển Việt Nam.
Sự hình thành phát triển của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đến ngày nay như chúng ta đã cảm nhận, vui mừng và tự hào về sự lớn mạnh của nó…có một điều khiến ta tâm đắc, đó chính là nhãn quan chiến lược của Đảng đối với lực lượng này.
Năm 1998, Cục Cảnh sát biển Việt Nam ra đời. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà CHXHCNVN là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCNVN.
Lúc đó Cục CSB chỉ là một Cục trực thuộc Bộ TL Hải quân về mọi mặt. Theo đó, ứng với mỗi vùng Hải quân là mỗi vùng CSB mà nó trực thuộc với một hải đội để “thực thi pháp luật Việt Nam trên biển”. Về trang bị chỉ mấy con tàu cũ của hải quân. Về người thì cũng từ Hải quân…quân số quá nhỏ nhoi so với Hải quân.
Lực lượng trẻ, khỏe, có kiến thức của CSB Việt Nam
Lực lượng trẻ, khỏe, có kiến thức của CSB Việt Nam
Rất ít người biết rằng, tuy tổ chức còn nhỏ, sơ khai nhưng tầm vóc nó sẽ rất lớn, sứ mạng nó sẽ rất nặng nề…Nhưng rất lớn thì lớn ra sao, sứ mạng rất nặng nề là như thế nào, lúc đó, ngay cả người trong cuộc, không phải ai cũng nhận thức được.
Sự “lớn lên” của Cảnh sát biển Việt Nam được ghi nhận bởi 2 điểm mốc quan trọng. Bắt đầu là các vùng CSB tách ra khỏi các vùng Hải quân năm 2000, tiếp theo năm 2008 toàn bộ Cục CSB tách ra khỏi quân chủng Hải quân để trực thuộc Bộ quốc phòng.
Có thể nói, Cảnh sát biển Việt Nam là từ Hải quân sinh ra và nuôi dưỡng. Mỗi lần “tách” khỏi Hải quân là mỗi lần chứng kiến lực lượng CSB “đủ lông đủ cánh” có khả năng để hoàn thành nhiệm vụ có tính chất khác biệt với Hải quân. Đến hôm nay có thể nói, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã phát triển vượt bậc, hiện đại hóa nhanh chóng phương tiện trang bị, cơ cấu tổ chức và con người.
Mới 15 năm, nhưng những người lính Hải quân từ những ngày đầu tiên cởi bỏ bộ quân phục Hải quân khoác lên mình quân phục Cảnh sát biển cũng cảm thấy ngỡ ngàng bởi sự lớn mạnh của nó. Giờ đây, CSB Việt Nam đã trở nên cứng cáp, bản lĩnh, tự tin sẵn sàng nhận và hoàn thành một nhiệm vụ mà Tổ quốc giao cho, đó là thực thi pháp luật Việt Nam trên biển.
Có lẽ bây giờ chúng ta đã hiểu tầm nhìn xa của Đảng trong công cuộc bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đó là công tác tổ chức xây dựng và phát triển lực lượng, tạo thế và lực cho đất nước đủ sức đương đầu với các tình huống.
Cảnh sát biển Việt Nam, được sinh ra, đầu tư, chăm lo phát triển như thế nào để bây giờ lực lượng này đảm nhận được trọng trách giao phó khi Luật biển Việt Nam ra đời trong bối cảnh khu vực đầy biến động…là một chứng minh hùng hồn cho sự sáng suốt nhìn xa, trong rộng của Đảng.
Để thực thi Luật biển Việt Nam có hiệu quả, từ những ngư dân can trường ngày đêm bám biển khẳng định chủ quyền, đến lực lượng bộ đội biên phòng, lực lượng Kiểm ngư (mới thành lập) và Cảnh sát biển Việt Nam là nòng cốt, trong tình hình khu vực biển Đông có sự tranh chấp diễn ra rất gay gắt thì không phải là dễ dàng.
Tàu CSB Việt Nam ngày càng được trang bị tối tân hiện đại tầm cỡ quốc tế.
Tàu CSB Việt Nam ngày càng được trang bị tối tân hiện đại tầm cỡ quốc tế.
Nhưng chúng ta có chính nghĩa, bởi Luật biển Việt Nam hoàn toàn phù hợp với “Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982” mà hầu hết các nước trong khu vực là thành viên. Do đó chúng ta thực thi Luật biển Việt Nam là hành động chính đáng, chính nghĩa.
Với một đất nước hơn 3 ngàn km bờ biển, cùng với hiện đại hóa lực lượng Hải Quân để bảo vệ biển đảo thân yêu của Tổ quốc, chúng ta cần phải tăng cường sức mạnh cho lực lượng Cảnh sát biển làm nòng cốt cho lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam trên biển.
Hơn lúc nào hết, sự ra đời của Luật biển Việt Nam đã làm cho sứ mạng của Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng và các lực lượng khác sẽ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh quang. Sự yên bình của ngư dân, luật pháp Việt Nam trên biển được thực thi nghiêm túc hay không, có một phần không nhỏ của sự hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII tại phiên họp cuối ngày 21-6-2012 của kỳ họp thứ ba đã bỏ phiếu thông qua Luật Biển với số phiếu tán thành là 495/496.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Luật Biển Việt Nam có bảy chương, 55 điều với việc xác định chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa…được ghi ngay trong điều 1. Luật Biển bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2013.
Đây là một sự kiện lớn, một tin vui lớn, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình phát triển đất nước hiện nay, thỏa mãn tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Luật Biển là một văn kiện pháp lý vô cùng quan trọng và cần thiết của đất nước ta để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển quốc gia, tạo cơ sở và hành lang pháp lý cao nhất cho mọi công việc sử dụng, khai thác và bảo vệ vùng biển nước nhà.
Những nội dung chính của Luật Biển Việt Nam
Luật Biển Việt Nam gồm có bảy chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013.
Chương 1 gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.
Chương 2 quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo…
Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam, trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam, hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…
Chương 4 của Luật Biển Việt Nam dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương 5 của Luật quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu.
Chương 6 quy định về xử lý vi phạm. Chương này bao gồm các điều khoản về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp ngăn chặn, thông báo cho Bộ Ngoại giao và xử lý vi phạm.
Chương 7 quy định về điều khoản thi hành.
 Xem chi tiết: Toan-van-luat-bien-viet-nam-2012

Biển Đông: Ẩn ý sau việc Philippines kiện TQ

Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" yêu sách tại Biển Đông.

 Liên quan đến việc ngày 22 tháng 01 năm 2013, Philippines tuyên bố khởi kiện Trung Quốc trong tranh chấp ở Biển Đông, phóng viên Tuần Việt Nam đã có buổi trao đổi với anh Nguyễn Đăng Thắng, Giảng viên Khoa Luật quốc tế của Học viện Ngoại giao, người đã có hai bài phân tích về khả năng Philippines kiện Trung Quốc (trên Tuần Việt Nam và trang Nghiên cứu Biển Đông). Mời bạn đọc cùng theo dõi:

Buộc Trung Quốc làm rõ yêu sách 9 đoạn
Tháng 8/2011, ông có bài dự đoán khả năng Philippines khởi kiện Trung Quốc trong tranh chấp ở Biển Đông. So với thông báo mới đây của Ngoại trưởng Albert del Rosario về việc Philippines sẽ kiện Trung Quốc,  ông thấy những đánh giá của mình thế nào?
Theo Tuyên bố khởi kiện của Philippines đăng trên mạng của Bộ Ngoại giao Philippines, Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (Công ước Luật Biển) sẽ thủ tục được Philippines viện dẫn để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Trong Tuyên bố của mình, Philippines cũng nêu rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như việc đòi hỏi Trung Quốc xác định vùng biển theo Công ước Luật Biển, cho rằng Trung Quốc vi phạm Công ước khi cản trở Philippines thực thi quyền hàng hải và tài nguyên trên vùng biển của mình hay việc cho rằng Trung Quốc đang tiến hành khai thác trái phép tài nguyên trong vùng biển của Philippines.
Tuy nhiên, có hai vấn đề chính trong nội dung khởi kiện của Philippines. Thứ nhất, Philippines cho rằng yêu sách về biển của Trung Quốc tại Biển Đông theo "đường chín đoạn" là trái với Công ước Luật Biển và vô giá trị.
Hai là, các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng chỉ đem lại cho Trung Quốc tối đa lãnh hải 12 hải lý do những vị trí này chỉ có thể được coi là "đá" (không phải "đảo" để được hưởng vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa) theo quy định tại Điều 121 của Công ước Luật Biển.
Có thể nói, các bài viết vào tháng 8/2011 đã dự đoán đúng về thủ tục khởi kiện và phần nào đúng về nội dung mà Philippines dự định kiện Trung Quốc trong tranh chấp tại Biển Đông.
Thực ra, việc Philippines sử dụng thủ tục Trọng tài theo Phụ lục VII là khá rõ do đây cơ chế "mặc định" để giải quyết bất đồng giữa các thành viên Công ước liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển trong trường hợp các bên tranh chấp không thỏa thuận được về thủ tục giải quyết tranh chấp.
Các biện pháp tư pháp khác như Tòa án công lý quốc tế hay Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp nếu có được sự đồng ý từ Trung Quốc.
Trừ khi Philippines tự mình rút lại đơn kiện, Trung Quốc sẽ tham gia vào tiến trình pháp lý này. Ảnh minh họa: Minh Thăng

Việc dự đoán Philippines kiện Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 cũng không khó và có thể suy luận một cách lôgic. Thủ tục Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển bị hạn chế bởi tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc, theo đó Tòa trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc phân định biển hay liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử. Như vậy, Philippines phải tìm cách "hóa giải" tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 và do đó đã lựa chọn kiện theo Điều 121 liên quan đến việc Trung Quốc có thể có được các vùng biển khác ngoài lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các vị trí Trung Quốc đang chiếm giữ tại Biển Đông hay không (tất nhiên là điều này còn phụ thuộc vào việc điều kiện là Trung Quốc thực sự có chủ quyền đối với các vị trí mà họ chiếm giữ - vấn đề này Philippines dường như tạm thời gác sang một bên).
Điều này cũng rất lôgic: nếu vùng biển mà Trung Quốc có thể có chỉ là 12 hải lý lãnh hải xung quanh các vị trí họ chiếm giữ thì sẽ không nảy sinh ra tranh chấp về phân định (trừ ở một vài khu vực chồng lấn nhỏ giữa lãnh hải xung quanh các vị trí tranh chấp và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển, trong đó có Philippines).
Trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines cũng nói rõ rằng họ không yêu cầu tòa tiến hành phân định biển ở Biển Đông (và cũng không yêu cầu có phân xử về chủ quyền đối với các vị trí tranh chấp).
Liên quan đến vấn đề yêu sách "đường chín đoạn", đây là một điểm khá thú vị trong Tuyên bố khởi kiện của Philippines. Vào thời điểm năm 2011, tuy có biết Philippines rất quan ngại về bản đồ "đường chín đoạn" của Trung Quốc nhưng tôi vẫn cho rằng Philippines sẽ gắn với vấn đề này với vấn đề Điều 121.
Tuyên bố khởi kiện của Philippines thì không nói rõ ràng như vậy mà coi "đường chín đoạn" thể hiện yêu sách về "chủ quyền" và "quyền chủ quyền" của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng Philippines cũng không nói rõ ràng thêm là "chủ quyền" và "quyền chủ quyền" mà Trung Quốc đòi hỏi trong "đường chín đoạn" là đối với cái gì và dựa trên cơ sở nào.
Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" của yêu sách của mình ở Biển Đông.

Mặt khác, ẩn trong nội dung của Tuyên bố khởi kiện đó Philippines coi là đường chín đoạn thể hiện yêu sách vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Trung Quốc do Trung Quốc có chủ quyền đối với các vị trí đảo, đá nằm trong đường này và vùng biển đó lớn hơn lãnh hải 12 hải lý (điểm này rõ hơn ở đoạn Philippines nói về vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi liên quan đến bãi Hoàng Nham - Scarborough). Nếu như vậy thì Philippines cũng gắn đường chín đoạn với việc giải thích và áp dụng Điều 121.
Việc Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" của yêu sách của mình ở Biển Đông- một điều mà dường như Philippines đã không làm được thông qua đàm phán ngoại giao. Họ quả thực rất khôn khéo.
Trung Quốc sẽ gặp bất lợi nếu không hợp tác
Khi nhận công hàm thông báo khởi kiện từ Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Theresa Lasaro, Đại sứ Trung Quốc tại Manila, bà Ma Keqing, đã khẳng định quan điểm của phía Trung Quốc là những tranh chấp tại Biển Đông cần phải được các bên liên quan giải quyết thông qua đàm phán. Một số nhà bình luận cũng cho rằng Trung Quốc sẽ "phớt lờ" động thái này của Philippines. Ông có dự đoán gì về phản ứng của Trung Quốc?
Việc Đại sứ Trung Quốc nêu quan điểm cho rằng tranh chấp với Philippines ở Biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán song phương là nhất quán với chủ trương của Trung Quốc từ trước đến nay trong các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ. Cũng chính vì vậy, phía Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines đưa tranh chấp tại Biển Đông ra giải quyết bằng biện pháp pháp lý, mà ở đây là thông qua trọng tài quốc tế.
Một số học giả, chủ yếu đánh giá vấn đề từ góc độ quan hệ quốc tế và chính trị quốc tế, cũng cho rằng không có nhiều khả năng tranh chấp được giải quyết bằng thủ tục trọng tài như Philippines mong muốn.
Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn các quy định về trình tự thủ tục liên quan đến việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển thì có thể dự đoán rằng, trừ khi Philippines tự mình rút lại đơn kiện, Trung Quốc sẽ tham gia vào tiến trình pháp lý này.
Phụ lục VII của Công ước Luật Biển đã trù định sẵn các thủ tục về việc thành lập Tòa trọng tài trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận về việc chỉ định trọng tài. Cụ thể đó là, sau khi nhận được thông báo khởi kiện, Trung Quốc sẽ phải chỉ định trọng tài viên của mình trong vòng 30 ngày và sẽ phải thỏa thuận với Philippines về ba thành viên còn lại của Tòa trọng tài trong vòng 60 ngày.
Nếu Trung Quốc không chỉ định trọng tài viên hoặc không đạt được thỏa thuận với Philippines về các trọng tài viên còn lại thì Philippines có thể đơn phương yêu cầu Chánh án Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ định các trọng tài viên này trong vòng hai tuần kể từ khi kết thúc các thời hạn trên. Với thủ tục như vậy, rõ ràng Trung Quốc sẽ gặp bất lợi nếu không hợp tác với Philippines.
Tôi nghĩ rằng nếu Philippines quyết tâm, Trung Quốc sẽ chỉ định trọng tài viên của mình trong Tòa trọng tài đồng thời bảo lưu việc Tòa trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa họ và Philippines. Theo cách này, Trung Quốc sẽ xây dựng lập luận để bác bỏ thẩm quyền của Tòa trọng tài khi vụ kiện được bắt đầu, cho rằng Tòa trọng tài không có thẩm quyền để thụ lý vụ việc.
Đây cũng là chiến lược phổ biến của các bên bị kiện. Trong thực tế Nhật Bản đã thành công với chiến lược này khi bị Úc và New Zealand kiện năm 1998 trước Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII liên quan đến việc bảo tồn và quản lý cá ngừ vây xanh. Tòa trọng tài trong phán quyết năm 2000 đã tuyên bố rằng mình không có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.

Vẽ thử kịch bản vụ kiện 'đường lưỡi bò'

 Không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.

Ông Nguyễn Đăng Thắng (giảng viên khoa Luật, Học viện Ngoại giao) phân tích:
Rất khó có thể dự đoán kết quả của vụ việc khi còn thiếu thông tin. Một đánh giá đầy đủ hơn chỉ có thể được đưa ra khi có các bản biện hộ và lập luận của Philippines và đặc biệt là của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên cơ sở tuyên bố khởi kiện của Philippines có thể có một số nhận xét sau.
Trước hết có thể thấy rằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII hoàn toàn có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 của Công ước Luật Biển đối với các cấu tạo địa chất tại Biển Đông. Vấn đề này không liên quan đến việc phân định biển hay nói đúng hơn là nó nằm trước giai đoạn phân định. Chỉ khi xác định các cấu tạo địa chất ở Biển Đông có vùng biển không và vùng biển đó rộng bao nhiêu thì mới biết có vùng chồng lấn ở đâu và có cần phân định không.
Tuy nhiên, ở đây có vấn đề đáng lưu ý là trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines giới hạn việc giải thích và áp dụng điều khoản này ở một số vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng tại Biển Đông chứ mở rộng ra toàn bộ ra các cấu tạo địa chất mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông. Cụ thể, Phi-líp-pin nêu rõ là vụ kiện chỉ liên quan đến bãi Hoàng Nham, ba vị trí tại Trường Sa là Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập cùng các bãi ngầm là Vành Khăn, McKennan, Gaven và Xu-bi mà Philippines cho rằng nằm trên thềm lục địa của họ (tất nhiên Philippines cũng bảo lưu quyền bổ sung, sửa đổi nội dung kiện của mình).
Đây là điểm mạnh và cũng là điểm yếu trong đơn kiện của Philippines. Điểm mạnh đó là các số liệu về địa lý, địa chất liên quan đến các vị trí Trung Quốc chiếm đóng là tương đối rõ ràng và do đó sẽ dễ dàng hơn cho Tòa trọng tài trong việc giải thích và áp dụng Điều 121 đối với các vị trí này (Philippines cũng đã nêu khá cụ thể các thông tin này trong Tuyên bố khởi kiện của mình).
Tuy nhiên, điểm yếu đó là Trung Quốc hoàn toàn có thể lập luận rằng yêu sách về chủ quyền của họ ở Biển Đông không chỉ giới hạn ở các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng như Philippines nêu, mà mở rộng ra nhiều vị trí khác, trong đó có cả các cấu tạo lớn hơn và nhô cao lên khỏi mặt nước.
Chẳng hạn, Trung Quốc có thể nêu ngay yêu sách đối với đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines đã đưa dân ra cư trú và cho rằng vị trí đó đáp ứng tiêu chuẩn là một đảo (phù hợp cho con người đến ở hoặc có được một đời sống kinh tế riêng) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, sẽ có vùng chồng lấn giữa một bên là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo Thị Tứ tại Trường Sa mà Trung Quốc cũng yêu sách và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển của Philippines. Để xác định tiếp xem phạm vi vùng biển thuộc đảo Thị Tứ và vùng biển thuộc bờ biển của Philippines là thế nào sẽ đòi hỏi phải tiến hành một công việc giống như phân định - một điều mà Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp này, Philippines sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra đó là khẳng định Trung Quốc tối đa chỉ có thể có các vùng lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các cấu tạo địa chất ở Biển Đông để từ đó khẳng định Philippines có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với Công ước nằm bên ngoài các vùng lãnh hải này.
Tất nhiên, cũng có thể Philippines đã dự trù đến việc này và có chuẩn bị để chứng minh rằng ngay cả những vị trí mà Trung Quốc yêu sách nhưng không chiếm đóng cũng không phải là "đảo" mà chỉ là "đá" theo Điều 121 của Công ước Luật Biển và do đó cũng chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.
Một khả năng nữa có thể xảy ra đó là Trung Quốc sẽ chính thức tuyên bố rằng "đường chín đoạn" là thể hiện yêu sách về quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử của Trung Quốc về Biển Đông (từ trước đến giờ Trung Quốc vẫn "nói bóng gió" về điều này). Trên cơ sở tuyên bố đó, Trung Quốc sẽ lập luận rằng Tọa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến "đường chín đoạn" vì Trung Quốc đã có tuyên bố năm 2006 về các ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài theo Phụ lục VII, theo đó loại bỏ các tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử khỏi thẩm quyền xét xử của Tòa trọng tài.
Tuy nhiên, ở đây có một số điểm chưa rõ ràng trong quy định của Công ước về ngoại lệ này và sẽ cần Tòa trọng tài giải thích. Thứ nhất, không rõ rằng ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có yếu tố lịch sử, kể cả yêu sách về quyền lịch sử và vùng nước lịch sử, hay chỉ giới hạn ở những tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử theo đúng lời văn của Công ước.
Thứ hai, nếu ngoại lệ về tranh chấp có yếu tố lịch sử được hiểu theo nghĩa rộng thì cũng vẫn chưa rõ rằng liệu tranh chấp đó bao gồm cả tranh chấp về việc có tồn tại quyền lịch sử, vùng nước lịch sử hay không, hay chỉ giới hạn ở tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền lịch sử hay sử dụng một vùng nước lịch sử đã được xác lập và công nhận.
Nhưng có thể chắc chắn rằng Philippines đã dự trù về điều này và có chuẩn bị lập luận riêng của mình về vấn đề này theo hướng hạn chế ngoại lệ mà Trung Quốc đưa ra.

Với việc kiện Trung Quốc, Philippines thách thức tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Fu Yuing trước Ngoại trưởng del Rosario rằng không được quốc tế hóa tranh chấp giữa họ, bằng cách 1. đưa vấn đề ra Liên hợp quốc và 2. đưa vấn đề ra với các bên thứ ba, bao gồm các đồng minh của Philippines (như Mỹ) và 3. không tiến hành cuộc họp báo công khai.
Nói cách khác, Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.
Với việc kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc, Philippines đang theo đuổi chiến lược ba mũi nhọn nhằm đối phó với những yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên biển Đông.

Ba mũi nhọn này là ngoại giao, chính trị và pháp lý. Philippines đưa ra bốn cáo buộc. Một là, “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là phi pháp xét theo luật pháp quốc tế. Hai là, Trung Quốc đã chiếm giữ và xây dựng cơ sở trên các bãi đá ngầm, bãi cạn, bãi cạn lúc chìm lúc nổi… trên biển Đông và gọi chúng một cách bất hợp pháp là “đảo”. Ba là, Trung Quốc đã can thiệp bất hợp pháp vào các hoạt động bảo vệ chủ quyền của Philippines trong vùng lãnh hải nước này. Bốn là, Philippines tìm kiếm một phán quyết trong luật pháp quốc tế về vấn đề mà Trung Quốc chưa đưa vào danh sách “không chấp nhận” của Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định đã vận dụng mọi giải pháp chính trị và ngoại giao để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc một cách hòa bình nhưng bất thành. Nếu Philippines không hành động, cộng đồng quốc tế sẽ cho rằng Manila ngầm chấp thuận việc Trung Quốc “thực hiện chủ quyền” trên vùng biển Philippines bằng các tàu hải giám. Trên thực tế, Trung Quốc đã thôn tính bãi cạn Scarborough bằng việc triển khai tàu chiến, tàu tuần tra tại khu vực này, thậm chí còn lập rào chắn. Ngư dân Trung Quốc cứ tiếp tục đánh bắt cá trái phép trên vùng biển của Philippines.
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) đưa ra bốn cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ: Tòa án luật biển quốc tế (ITLOS), Tòa án công lý quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài và Tòa án trọng tài đặc biệt. Philippines đã tuân thủ mọi quy trình của UNCLOS. Các nước khi ký kết UNCLOS là đã chấp nhận việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Đầu tiên các nước phải giải quyết tranh chấp song phương. Nếu không đạt được thỏa thuận, một quốc gia có quyền đưa vụ việc ra tòa quốc tế theo UNCLOS. Quốc gia này có quyền chọn ITLOS hoặc Tòa án trọng tài.
Philippines đã chọn Tòa án trọng tài. Ban đầu Tòa án trọng tài sẽ xác định cơ quan này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Có nghĩa là tòa án sẽ xác định lập luận của Philippines có bao gồm việc diễn giải hoặc áp dụng UNCLOS hay không. Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu một địa điểm tranh chấp là đảo, bãi cạn hay bãi đá ngầm. Quan trọng hơn, Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu Trung Quốc có can thiệp bất hợp pháp vào chủ quyền lãnh thổ của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines hay không.
Tàu hải giám Trung Quốc xuất hiện gần bãi cạn Scarborough Ảnh: AFP
Tàu hải giám Trung Quốc xuất hiện gần bãi cạn Scarborough Ảnh: AFP
Tháng 8-2006, Trung Quốc tuyên bố không chấp nhận quy trình giải quyết tranh chấp bắt buộc dựa trên bốn cơ chế trên trong các vấn đề về phân định vùng lãnh hải, EEZ và thềm lục địa. Philippines khẳng định vụ việc này liên quan đến các vấn đề ngoài vùng lãnh hải, EEZ hay thềm lục địa. Vụ việc của Philippines cũng bao gồm việc diễn giải luật quốc tế theo UNCLOS. Do đó, Tòa án trọng tài có thể sẽ ra phán quyết ủng hộ Philippines. Nhiều khả năng phán quyết này sẽ tái xác nhận đường bờ biển, vùng lãnh hải và EEZ của Philippines dựa trên luật pháp quốc tế. Đó sẽ là một đòn mạnh giáng vào yêu sách “đường lưỡi bò” bất hợp pháp của Trung Quốc.
Chính quyền Philippines đã lựa chọn một cách cẩn thận những khía cạnh pháp lý đặc thù trong tranh chấp với Trung Quốc để đưa ra tòa án Liên Hiệp Quốc. Bất kỳ một phán quyết nào của Tòa án trọng tài phủ nhận “đường lưỡi bò” của Trung Quốc cũng đều có lợi cho các quốc gia khác có đòi hỏi chủ quyền trên biển Đông. Các nước như Việt Nam hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm và tiền lệ của Philippines.
Thúc đẩy quốc tế hóa tranh chấp biển Đông
Hành động chính trị – pháp lý của Philippines sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình “quốc tế hóa” tranh chấp biển Đông. Nó cũng có thể dẫn tới phản ứng dây chuyền tại các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại biển Đông. Có thể các quốc gia này sẽ theo gương Manila đưa tranh chấp với Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế.
Lường định những rủi ro có thể có, các nhà hoạch định chính sách ở Manila không hề hành động một cách bất cẩn. Trong nhiều tháng qua, dưới sự chủ trì của Ngoại trưởng Albert del Rosario, các học giả và luật sư Philippines và quốc tế đã hình thành một chiến lược pháp lý. Sự khôn khéo của Manila là việc chọn một khía cạnh pháp lý – chính trị liên quan “đường lưỡi bò” mà dư luận quốc tế đều thừa nhận là phi lý. Một khi “đường lưỡi bò” bị bác bỏ về mặt pháp lý và công lý quốc tế, lợi ích của Philippines tại bãi cạn Scarborough cũng sẽ được bảo vệ. Ở mức độ, vụ kiện này sẽ góp phần vào cuộc đấu tranh chung về pháp lý, chính trị, ngoại giao để tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp trên biển Đông. “Cách tiếp cận luật pháp quốc tế” luôn là một sự lựa chọn có giá trị, một lá bài chiến lược để ngỏ.

Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.
Không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc Ông Nguyễn Đăng Thắng (giảng viên khoa Luật, Học viện Ngoại giao) phân tích:
Rất khó có thể dự đoán kết quả của vụ việc khi còn thiếu thông tin. Một đánh giá đầy đủ hơn chỉ có thể được đưa ra khi có các bản biện hộ và lập luận của Philippines và đặc biệt là của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên cơ sở tuyên bố khởi kiện của Philippines có thể có một số nhận xét sau.
Trước hết có thể thấy rằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII hoàn toàn có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 của Công ước Luật Biển đối với các cấu tạo địa chất tại Biển Đông. Vấn đề này không liên quan đến việc phân định biển hay nói đúng hơn là nó nằm trước giai đoạn phân định. Chỉ khi xác định các cấu tạo địa chất ở Biển Đông có vùng biển không và vùng biển đó rộng bao nhiêu thì mới biết có vùng chồng lấn ở đâu và có cần phân định không.
Biển Đông
Tuy nhiên, ở đây có vấn đề đáng lưu ý là trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines giới hạn việc giải thích và áp dụng điều khoản này ở một số vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng tại Biển Đông chứ mở rộng ra toàn bộ ra các cấu tạo địa chất mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông. Cụ thể, Phi-líp-pin nêu rõ là vụ kiện chỉ liên quan đến bãi Hoàng Nham, ba vị trí tại Trường Sa là Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập cùng các bãi ngầm là Vành Khăn, McKennan, Gaven và Xu-bi mà Philippines cho rằng nằm trên thềm lục địa của họ (tất nhiên Philippines cũng bảo lưu quyền bổ sung, sửa đổi nội dung kiện của mình).
Đây là điểm mạnh và cũng là điểm yếu trong đơn kiện của Philippines. Điểm mạnh đó là các số liệu về địa lý, địa chất liên quan đến các vị trí Trung Quốc chiếm đóng là tương đối rõ ràng và do đó sẽ dễ dàng hơn cho Tòa trọng tài trong việc giải thích và áp dụng Điều 121 đối với các vị trí này (Philippines cũng đã nêu khá cụ thể các thông tin này trong Tuyên bố khởi kiện của mình).
Tuy nhiên, điểm yếu đó là Trung Quốc hoàn toàn có thể lập luận rằng yêu sách về chủ quyền của họ ở Biển Đông không chỉ giới hạn ở các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng như Philippines nêu, mà mở rộng ra nhiều vị trí khác, trong đó có cả các cấu tạo lớn hơn và nhô cao lên khỏi mặt nước.
Chẳng hạn, Trung Quốc có thể nêu ngay yêu sách đối với đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines đã đưa dân ra cư trú và cho rằng vị trí đó đáp ứng tiêu chuẩn là một đảo (phù hợp cho con người đến ở hoặc có được một đời sống kinh tế riêng) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, sẽ có vùng chồng lấn giữa một bên là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo Thị Tứ tại Trường Sa mà Trung Quốc cũng yêu sách và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển của Philippines. Để xác định tiếp xem phạm vi vùng biển thuộc đảo Thị Tứ và vùng biển thuộc bờ biển của Philippines là thế nào sẽ đòi hỏi phải tiến hành một công việc giống như phân định – một điều mà Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp này, Philippines sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra đó là khẳng định Trung Quốc tối đa chỉ có thể có các vùng lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các cấu tạo địa chất ở Biển Đông để từ đó khẳng định Philippines có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với Công ước nằm bên ngoài các vùng lãnh hải này.
Tất nhiên, cũng có thể Philippines đã dự trù đến việc này và có chuẩn bị để chứng minh rằng ngay cả những vị trí mà Trung Quốc yêu sách nhưng không chiếm đóng cũng không phải là “đảo” mà chỉ là “đá” theo Điều 121 của Công ước Luật Biển và do đó cũng chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.
Vụ kiện 'đường lưỡi bò'
Một khả năng nữa có thể xảy ra đó là Trung Quốc sẽ chính thức tuyên bố rằng “đường chín đoạn” là thể hiện yêu sách về quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử của Trung Quốc về Biển Đông (từ trước đến giờ Trung Quốc vẫn “nói bóng gió” về điều này). Trên cơ sở tuyên bố đó, Trung Quốc sẽ lập luận rằng Tọa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến “đường chín đoạn” vì Trung Quốc đã có tuyên bố năm 2006 về các ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài theo Phụ lục VII, theo đó loại bỏ các tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử khỏi thẩm quyền xét xử của Tòa trọng tài.
Tuy nhiên, ở đây có một số điểm chưa rõ ràng trong quy định của Công ước về ngoại lệ này và sẽ cần Tòa trọng tài giải thích. Thứ nhất, không rõ rằng ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có yếu tố lịch sử, kể cả yêu sách về quyền lịch sử và vùng nước lịch sử, hay chỉ giới hạn ở những tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử theo đúng lời văn của Công ước.
Thứ hai, nếu ngoại lệ về tranh chấp có yếu tố lịch sử được hiểu theo nghĩa rộng thì cũng vẫn chưa rõ rằng liệu tranh chấp đó bao gồm cả tranh chấp về việc có tồn tại quyền lịch sử, vùng nước lịch sử hay không, hay chỉ giới hạn ở tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền lịch sử hay sử dụng một vùng nước lịch sử đã được xác lập và công nhận.
Nhưng có thể chắc chắn rằng Philippines đã dự trù về điều này và có chuẩn bị lập luận riêng của mình về vấn đề này theo hướng hạn chế ngoại lệ mà Trung Quốc đưa ra.
Với việc kiện Trung Quốc, Philippines thách thức tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Fu Yuing trước Ngoại trưởng del Rosario rằng không được quốc tế hóa tranh chấp giữa họ, bằng cách 1. đưa vấn đề ra Liên hợp quốc và 2. đưa vấn đề ra với các bên thứ ba, bao gồm các đồng minh của Philippines (như Mỹ) và 3. không tiến hành cuộc họp báo công khai.
Nói cách khác, Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.

Tranh chấp lãnh hải: Những sự thực trớ trêu

Tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và Hoa Đông có nguy cơ đe dọa làm chệch hướng Thế kỷ châu Á.
Châu Á thế kỷ 21 hoàn toàn có thể xảy ra những biến cố giống như vụ ám sát hoàng tử Áo Ferdinand, sự kiện châm ngòi cho Đại chiến thế giới thứ nhất. Căng thẳng gia tăng trong các tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông và Hoa Đông đe dọa phá vỡ Thế kỷ được dự báo là của châu Á này. Chưa rõ kết quả sẽ ra sao, nhưng ở đây rõ ràng không chỉ tồn tại những chủ nghĩa dân tộc đang đấu tranh với nhau, những vết sẹo còn hằn sâu trong ký ức mỗi quốc gia và sự trỗi dậy của một Trung Quốc ngày càng hung hăng đằng sau những xung đột lợi ích.
Với nhiều người, tất cả là vì dầu mỏ: quan điểm được nhiều người chia sẻ là dưới các vùng biển tranh chấp này chứa đựng một kho báu dầu khí có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng của tất cả các nền kinh tế châu Á năng động.
Thế nhưng thật trớ trêu khi vẫn chưa hề có một cơ sở nào khẳng định suy nghĩ phổ biến này. Trên thực tế, người chiến thắng trong các tranh chấp Biển Đông và Hoa Đông cũng khó có khả năng kiếm được nhiều năng lượng đủ để tạo sự khác biệt đáng kể cho nhu cầu năng lượng ngày một lớn của mình. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp của Trung Quốc. Trong bất kỳ tình huống nào, việc khai thác nguồn tài nguyên nào đang tồn tại sẽ đòi hỏi sự chắc chắn và ổn định cao về pháp lý cũng như chính trị.
Căng thẳng trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ lên xuống như thủy triều những năm gần đây. Kể từ năm 1974, khi Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, khiến 18 chiến sĩ hải quân Việt Nam hy sinh trong cuộc giao đấu, đã xảy ra hơn 20 cuộc đụng độ quân sự trên Biển Đông. Đa số các vụ việc xảy ra trong những năm 1990, sau đó là giai đoạn tương đối trầm lắng cho tới gần đây. Mặc dù Trung Quốc đã ký và thông qua Điều ước Luật Biển (LOS), sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc lại dựa trên căn cứ đi ngược lại với điều ước này. "Đường chín đoạn" của họ bao gồm hơn 80% Biển Đông, đi quá xa so với phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hỉ lý được Điều ước công nhận.
Một nhân tố mới có thể làm gia tăng rủi ro trong tranh chấp là những tiến bộ không ngừng của công nghệ khoan biển sâu. Cho tới những năm 1990, gần như không có giàn khoan dầu khí ngoài khơi nào có thể hoạt động tại các mỏ sâu hơn 304m. Trong 2 thập niên trở lại đây, nguồn dầu tăng trên khắp thế giới có được nhờ công nghệ khoan "siêu sâu" - với độ sâu tới 1.500m. Cho đến gần đây, công nghệ này vẫn chỉ giới hạn chủ yếu trong các công ty năng lượng đa quốc gia lớn của phương Tây. Sau đó, tháng 5 năm ngoái, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) tuyên bố phát triển thành công giàn khoan dầu nước sâu với chi phí chỉ xấp xỉ 1 tỷ USD, có khả năng hút dầu ở độ sâu 12.000m.
Đến nay, vẫn chưa có khảo sát chính thức nào về tiềm năng dầu khí tại Biển Đông hay Hoa Đông. Ước tính của Trung Quốc về trữ lượng dầu khí ở cả hai khu vực tranh chấp xem ra quá phóng đại so với số liệu của các công ty năng lượng đa quốc gia lớn và nhiều nhà phân tích khác. Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu ở biển Hoa Đông là 160 tỷ thùng, gần gấp đôi con số ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ.
Về trữ lượng Biển Đông - theo đa số các chuyên gia, khoảng 70% là khí gas - Trung Quốc cũng khẳng định con số cao hơn nhiều. CNOOC ước tính có khoảng 213 tỷ thùng dầu - gần bằng quy mô trữ lượng đã kiểm chứng của Ả-rập Xê-út. Con số này cao gần gấp 12 lần ước tính của Cơ quan Địa chất Mỹ, và hãng tư vấn năng lượng Wood-Mackenzie nhận định có tổng cộng 2,5 tỷ thùng quy dầu khí đã kiểm chứng ở các đảo và bãi ngầm thuộc Biển Đông - tức là thấp hơn gần 100 lần so với khẳng định của Trung Quốc!
Ngoại trừ Trung Quốc và các doanh nghiệp nước này đã thực hiện các dự án khai thác chung với các công ty nước ngoài, nhiều quốc gia Đông Á đang tìm cách khai thác nguồn tài nguyên tại các đảo và bãi đá tranh chấp cũng cần hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, nhiều bên tranh chấp trong ASEAN tại Biển Đông đã ký các hợp đồng thăm dò dầu với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, rủi ro chính trị và thiếu pháp lý vững chắc tại các lãnh thổ tranh chấp khiến họ khó nhận được những khoản đầu tư quy mô lớn.
Theo tác giả, hợp lý nhất vẫn sẽ là chính sách mà Trung Quốc đã theo đuổi cho tới gần đây, như sáng kiến của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, "gác tranh chấp, cùng khai thác". Tuy nhiên, trước thực tế quá trình ra quyết sách thiếu rõ ràng của Trung Quốc, không khó để đưa ra nhận định rằng sự kết hợp giữa tham vọng hải quân, chính sách tài nguyên mang màu sắc chủ nghĩa trọng thương, và niềm tin quá lớn vào nguồn năng lượng và năng lực công nghệ dầu khí mới có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc từ bỏ đường lối chính sách trên của Đặng Tiểu Bình.
Điều mỉa mai là, Đặng Tiểu Bình đã nói đúng. Rất khó có thể tìm ra phương thức giải quyết tranh chấp: Làm sao các quốc gia có thể nhượng bộ danh dự quốc gia và bỏ qua các ký ức lịch sử? Và cũng rất khó xây dựng một sự ổn định pháp lý và chính trị để giảm thiểu rủi ro, cho phép các công ty năng lượng toàn cầu tiến hành những khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ USD. Đa số các hợp đồng thăm dò khai thác được ký với các công ty năng lượng nhỏ.
Trên thế giới và trong khu vực cũng có nhiều tiền lệ khai thác tài nguyên chung. Các nước Bắc cực đã ký một thỏa thuận khai thác chung. Ở Đông Á, Thái Lan và Malaysia cũng có một hiệp định khai thác dầu khí chung và hiệp ước tương tự cũng tồn tại giữa Đông Timor và Australia.
Chưa hết, Trung Quốc và Nhật Bản cũng từng đạt được thỏa thuận khai thác dầu khí chung trong khu vực xung quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku hoang đang tranh chấp vào năm 2008. Bắc Kinh và Tokyo thống nhất cùng khai thác 4 mỏ khí tại Hoa Đông và gác lại hoạt động khai thác tại các khu vực tranh chấp khác. Hai bên đồng ý tiến hành khảo sát chung, và đầu tư ngang nhau vào khu vực phía bắc mỏ khí Chunxiao/Shirakaba và phía nam mỏ khí Longjing/Asunaro. Tuy nhiên, Trung Quốc đã bắt đầu đơn phương khai thác mỏ khí Tianwaitian/Kashi, dẫn đến cuộc biểu tình phản đối tại Nhật Bản vào tháng 1/2009. Hành động gây tranh cãi đó, cùng với cuộc đụng độ năm 2010 giữa tàu cá Trung Quốc với tàu cảnh sát biển Nhật Bản đã làm trì hoãn việc thự thi hiệp định.
Tại Đông Á đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc các chính phủ mới sau khi lên nắm quyền tại Tokyo, Seoul và Bắc Kinh sẽ ảnh hưởng ra sao đến các tranh chấp lãnh thổ. Chỉ riêng việc gia tăng hoạt động của các tàu tuần tra tại khu vực tranh chấp cùng với các cuộc tuần tra trên không đủ báo hiệu năm 2013 có thể sẽ chứng kiến ít nhất một vài cuộc đụng độ hải quân. Trong một tín hiệu tích cực hơn, Thủ tướng Nhật  Bản Shintaro Abe, một lãnh đạo theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hăng hái, đã nhanh chóng cử phái viên cấp cao tới Seoul, nơi đang có tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản, để trấn an chính phủ mới của bà Park Geun-hye và cố gắng nối lại quan hệ hữu nghị.
Quan hệ Trung-Nhật đang đặc biệt căng thẳng khi Trung Quốc cử các tàu của cơ quan an ninh biển đi tuần tễu hằng ngày quanh Senkaku và một số nhân vật tại Nhật Bản đe dọa cử Lực lượng phòng vệ trên không bắn cảnh báo. Như khi giữ chức vụ thủ tướng năm 2006, ông Abe đã tiến hành nỗ lực đặc biệt để xoa dịu quan ngại của Trung Quốc khi lên cầm quyền. Lấy kinh tế làm ưu tiên và cuộc bầu cử Thượng viện diễn ra trong tháng 7, ông Abe được chờ đợi sẽ hạn chế đối đầu - ít nhất trong ngắn hạn. Nhưng trước sự phẫn nộ của người dân với những hành vi khiêu khích từ Trung Quốc, ông Abe và nội các đang "say đắm" chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ càng khấy động tình hình.
Mỹ đã kêu gọi cả hai bên kiềm chế căng thẳng và một phái đoàn quan chức an ninh và ngoại giao cấp cao đã được cử sang để cố vấn cho các đồng minh Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cuối cùng, một loạt các tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại châu Á chắc chắn sẽ không mang đến vận may năng lượng cho bất kỳ ai. Trừ khi khu vực có thể tìm ra lối đi giải quyết hay ít nhất là quản lý khát vọng dân tộc chủ nghĩa đang thúc đẩy điều lẽ ra chỉ là những cuộc tranh chấp nhỏ đối với một số đảo và bãi ngầm hoang, nếu không, Thế kỷ châu Á cũng sẽ sớm chấm dứt mà thôi.
Trâm Anh theo Robert A. Manning/ Yale Global
Tác giả Robert A. Manning nguyên là cố vấn cấp cao (2001-2004) và thành viên Tổ hoạch định chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ từ năm 2004-2008. Hiện ông đang là thành viên cấp cao của Trung tâm An ninh quốc tế Brent Scowcroft của Hội đồng Thái Bình Dương.