Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

Biển Đông: Vì sao Việt Nam đấu trí với Trung Quốc bằng đàm phán ?

Khi Trung Quốc gây hấn, cố tình dùng nhiều tiểu xảo hòng chiếm Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam, thì một số người xưng là “yêu nước”, đòi hỏi lãnh đạo Việt Nam dùng vũ lực để đối phó lại. Tuy nhiên, lãnh đạo Việt Nam lại dùng chiến thuật “đàm phán” để đáp trả!

Cảnh sát biển Việt Nam
Bất mãn trước “nước cờ” này, nhiều Blog xuyên tạc, lếu láo bảo rằng “lãnh đạo Việt Nam bán nước cho Tàu nên không dùng vũ lực”. Họ cứ muốn lãnh đạo phải dùng vũ lực nhưng họ không biết rằng, lúc này đàm phán chính là nước cờ thiên biến vạn hóa, là sức mạnh tối cao, hữu hiệu để luật pháp quốc tế về biển Đông hiện diện đúng nghĩa ở đất nước mệnh danh là bậc thầy gây hấn này!
Có thể nói, đàm phán chính là chìa khoá thành công trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ! Vì sao lại như vậy, lời nói vì sao có sức mạnh hơn vũ khí? Đơn giản bởi vì: nếu như Việt Nam đàm phán thành công với Trung Quốc, không những Việt Nam sẽ đòi lại những gì thuộc về đất nước hình chữ S mà còn mở ra cơ hội mới giúp Việt Nam xây dựng, duy trì và củng cố những mối quan hệ hợp tác lâu dài với nước này. Nếu như đi nước cờ này, Việt Nam sẽ không phải hy sinh xương máu người dân. Không có chiến tranh thì người dân Việt sẽ sống bình yên và không có cảnh gia đình tan nát. Việt Nam sẽ không mất mát, hư tổn bất cứ điều gì.

Trường Sa
Đó là mặt phải của vấn đề. Còn mặt trái đó là nếu như không cẩn thận, những sai lầm trong cuộc đàm phán có thể khiến Việt Nam chịu thiệt thòi, không lấy lại những gì đã mất mà thậm chí có thể dẫn đến mất luôn quần đảo đang có!
Xưa nay Trung Quốc ngang ngược, rất nhiều lần đi ngược lại cam kết DOC về biển Đông và thường xuyên dở chiêu trò biến thủ phạm thành nạn nhân. Thế nên việc muốn Trung Quốc chịu thực hiện theo luật pháp quốc tế là điều không phải dễ. Đối phó với Trung Quốc phải cần 1 quá trình chuẩn bị và đàm phán lâu dài. Người đàm phán thông minh phải là biết tận dụng tối đa những điều kiện có trong tay để vận dụng một cách linh hoạt trong mọi điều kiện. Phải chuẩn bị tài liệu, chứng cứ và biết nắm bắt cơ hội thì đàm phán mới nắm chắc được thành công.
Rất nhiều người ngờ vực, đặt câu hỏi rằng: nếu như “đàm phán” là phương pháp tối ưu vậy thì vì sao Trung Quốc còn mãi gây hấn, vẫn khăng khăng chiếm đảo của Việt Nam? Dĩ nhiên đàm phán là quá trình có khởi điểm và kết điểm (điểm chết). Trong bất cứ cuộc đàm phán nào, phải gần đến điểm chết mới có được kết quả. Nếu như để cho Trung Quốc biết điểm chết của ta thì ta sẽ không có lợi. Họ sẽ nấn ná, đến gần điểm chết mới tung con ác chủ bài buộc ta nhượng bộ. Vì vậy mà ta phải nhẫn nại, giữ bình tĩnh khi đấu trí với Trung Quốc. Dục tốc bất đạt trong trường hợp này, nghĩa là vậy!
Sở dĩ Trung Quốc không thực hiện đúng cam kết DOC về biển Đông và đi gây hấn, tạo áp lực ngày một nhiều hơn với các nước trong khu vực cốt là để Việt Nam rơi vào thế bị động. Trung Quốc đang chơi chiến lược “mèo vờn chuột”, đùa giỡn để các nước nhỏ hơn nóng giận, thiếu lý trí, dùng vũ lực chống lại. Đợi có thế, vậy là Trung Quốc sẽ nhân danh “đáp trả” lại!
Trung Quốc đang chơi trò chiến thuật kinh điển mà các nhà đàm phán hay áp dụng là kéo dài thời gian, làm cho “chính chủ” rơi vào thế bị động và tự tìm đến điểm kết thúc. Đây là chiêu trò cũ rích mà Trung Quốc thực hiện, thế nhưng nếu như lãnh đạo Việt Nam không sáng suốt sẽ chẳng thể nào nhận ra tiểu xảo này của Trung Quốc!
Đó cũng chính là hàm ý mà lãnh đạo nước ta lại chọn đàm phán để đáp trả Trung Quốc chứ không chọn vũ lực. Nên nhớ rằng, bên cạnh Việt Nam còn có nhiều nước láng giềng, còn rất nhiều đồng minh và bạn bè quốc tế ủng hộ thế nên không dại gì mà ta lại dùng vũ lực với Trung Quốc lúc này!  Đàm phán tuy là con dao hai lưỡi thế nhưng Việt Nam đang nắm đằng cán, đang nắm lý lẽ thì làm sao Trung Quốc có thể đổi trắng thay đen cho được?!
Đi một nước cờ hàm ẩn rất nhiều nước bí. Nhìn lại cả quá trình dân tộc Việt Nam phản đối hành động ngông cuồng của Trung Quốc khi xâm phạm lãnh thổ đất Việt mới thấy rằng lãnh đạo ta rất linh hoạt, phân tích sáng suốt tình hình thời cuộc. Lãnh đạo đã chọn nước tối ưu đó là đoàn kết cùng quốc tế, những nước đồng minh ghì Trung Quốc đến với các cuộc đàm phán để đẩy Trung Quốc đến thế bí. Nếu như đưa Trung Quốc “tâm phục khẩu phục” ngồi vào bàn đàm phán thì chắc chắn ưu thế sẽ thuộc về Việt Nam. Đến lúc đó, Việt Nam sẽ lấy lại tất cả những gì mà Trung Quốc đang chiếm của Việt Nam. Đó là điều tất yếu, bởi Việt Nam có đủ lý lẽ và bằng chứng để chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa, vùng trời – vùng biển đó hoàn toàn là của Việt Nam!
Xem lại lịch sử, 1972 Mỹ dùng sức ép Quân sự trên bàn đàm phám nhưng không thành và Mỹ đã dùng tất cả những gì có thể để đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá, Khi đó ai cũng nghĩ trên bầu trời B52 là bất khả chiến bại nhưng kết quả thì sao. Quân sự và chuyện bí mật quốc gia không phải để ai cũng biết, chúng ta đang sống trên mảnh đất có truyền thống này thì hãy giữ vững niềm tin.
Lúc này nếu đánh liệu có chắc thắng ko? Nhưng về lý chúng ta đúng thì đàm phán là chắc thắng. Vậy nên chọn cái nào : Đàm phán là giải pháp hòa bình tuy nhiên trong lúc chờ ngồi đàm phán với Trung Quốc, Việt Nam cũng phải phản ứng cứng rắn với nước láng giềng không nên để họ cứ làm càn. Tích cực đầu tư cho hải quân không quân. Tập trận trên biển đông cũng nên có chút uy lực. Việt Nam có lực lượng quân đội hùng mạnh anh dũng phải cho họ biết điều đó.
 CẢ NGÀN NĂM NAY CỨ MỖI LẦN TQ XUẤT QUÂN LÀ 1 LẦN THẤT BẠI....
QĐND VIỆT NAM "NỖI KHIẾP SỢ CỦA QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC"

BÀI VIẾT THỂ HIỆN QUAN ĐIỂM CỦA ANH NGỮ THỜI BÁO VÌ VẬY 1 SỐ THÔNG TIN VẪN CHƯA CHUẨN XÁC

Epoch Times (23 Jan 2013)

Chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam đã công bố thực thi Luật biển Việt Nam, trong đó tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền nước CHXHCN Việt Nam. Sự việc này tương tự như động thái của Trung Quốc trong tháng 6 năm 2012 khi công bố thành lập thành phố Tam Sa quản lý các quần đảo ở vùng quần đảo ở biển Đông Việt Nam, chính thức đưa các quần đảo này vào chủ quyền của Trung Quốc…

Ngay bây giờ, Việt Nam và Philippines đã đạt được thỏa thuận về hợp tác hàng hải, mục đích là để cùng nhau đối phó với Trung Quốc, hầu hết các nước ASEAN đều đứng về phía Việt Nam và Philippines. Đồng thời, chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ động liên hệ móc nối với các cường quốc thế giới.

Trong những năm gần đây, Việt Nam tăng cường mối quan hệ với các nước đồng minh truyền thống nhất là Nga, và mời Nga quay trở lại Vịnh Cam Ranh, thành lập tại đây trung tâm bảo dưỡng trang thiết bị an ninh kỹ thuật hàng hải chung, Nga cung cấp những khoản tiền lớn để xây dựng một cơ sở tàu ngầm tại Việt Nam; Việt Nam vào 6 tàu ngầm Kilo của Nga, chiếc tàu ngầm đầu tiên được mang tên Hà Nội, đã được hạ thủy cuối năm 2012, không những thế Việt Nam còn tiếp tục mở rộng mua sắm vũ khí của Nga.

Việt Nam cũng đã cải thiện đáng kể mối quan hệ với kẻ thù cũ là Hoa Kỳ. Trong năm 2012, Bộ trưởng Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã đến thăm Việt Nam, họp bàn về khu vực an ninh và hợp tác quốc phòng, và đạt được sự đồng thuận rộng rãi. Việt Nam mời lực lượng Hải quân Mỹ thường xuyên đến Vịnh Cam Ranh và cho phép các tàu hậu cần thường gé Vịnh Cam Ranh, và hứa sẽ cung cấp các dịch vụ bảo trì sửa chữa cho các tàu hậu cần của Mỹ, Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức tập trận chung với Hoa Kỳ, hoặc tham gia các cuộc diễn tập đa phương do Mỹ dẫn đầu.

Vịnh Cam Ranh nằm phía Đông Nam của Việt Nam, đây như một “pháo đài chiến lược,” có thể kiểm soát cả tuyến đường đến Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Cảng được bao quanh bởi các dãy núi ở ba mặt, một lối ra biển, lối vào hẹp, địa hình khó khăn, dễ dàng phòng thủ, có thể là nơi neo đậu cho khoảng 40 tàu lớn trọng tải dưới 100,000 tấn. Là một nơi được các cường quốc quân sự chọn làm nơi đồn trú, như Sa hoàng Nga (1905), Pháp (cuối thế kỷ 19, thế kỷ 20), Nhật Bản (1940 và 1945), Hoa Kỳ (1965-1973), Liên Xô và Nga (1979-2002). Ngày nay, Việt Nam đang chào mời cả hải quân Nga và Hải quân Hoa Kỳ quay trở lại và thay phiên nhau đóng quân tại Vịnh Cam Ranh, rõ ràng là để chống lại Trung Quốc.

Việt Nam cũng đã siết chặt quan hệ với Nhật Bản để xây dựng một liên minh chiến lược. Trong tháng 7 năm 2012, Phó Thủ tướng Việt Nam đã thăm Nhật Bản, công khai kêu gọi Nhật Bản và Việt Nam tăng cường hoạt động ở vùng biển Đông Việt Nam để đảm bảo quyền tự do hàng hải ở châu Á. Trong tháng 1 năm 2013, Thủ tướng Nhật Bản đã đến thăm Việt Nam nhằm mục đích để thúc đẩy liên minh Nhật Bản-Việt Nam. Nhật Bản đã trở thành một nước tài trợ và đầu tư lớn nhất cho Việt Nam.

Năm 2012, tàu chiến hải quân Ấn Độ thăm Việt Nam, đã được mời đồn trú tại Nha Trang, Việt Nam, tháng 1 năm 2013, tàu chiến hải quân Ấn Độ thăm lại Việt Nam và gé thăm cảng Đà Nẵng đây cũng là một pháo đài quân sự của Việt Nam. Ấn Độ và Việt Nam tiếp tục gia hạn hợp đồng để tiếp tục thăm dò và khai thác dầu khí ở vùng biển Đông Việt Nam. Hợp tác ba bên Nga - Ấn Độ - Việt Nam là một " tam giác sắt" hợp nhất, Bắc Kinh cần thận trọng.

Việt Nam là nước giỏi nhất hợp nhất được hai thái cực quyền lực nhất thế giới, cùng lúc đó cả bốn cường quốc quyền lực như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ, đã và đang hỗ trợ đầy đủ cho Việt Nam để làm đối trọng với Trung Quốc. Theo phân tích của truyền thông Nga: Trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước duy nhất đối đầu mạnh mẽ nhất với Trung Quốc và sẽ tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng hoặc một cú đánh lớn vào Trung Quốc.

Dân số Việt Nam khoảng hơn 90 triệu người và là một nước lớn ở khu vực Đông Nam Á. Trong lịch sử, người Việt Nam rất dũng cảm và đấu tranh quyết liệt. Mỹ một nước đã từng có nhiều cuộc tham chiến ở nước ngoài cũng phải thừa nhận rằng chỉ họ chỉ thua ở Việt Nam.

Năm 1979 Campuchia đưa quân xâm lược Việt Nam và đã bị quân đội Việt Nam giáng cho những đòn nặng nề và phải vội vã rút quân. Cũng trong năm đó trong một thời gian ngắn hơn hai tuần, Quân đội Trung Quốc đã phải trả giá bằng cái chết của hàng chục nghìn binh lính chết và bị thương, quả là ngoạn mục. Và một cuộc chiến tranh với Việt Nam một lần nữa lại ám ảnh quân đội Trung Quốc vì vẫn không có cơ hội để chiến thắng, thậm chí cả khi quân đội Trung Quốc có thể có ưu thế trên không và trên biển, nhưng cũng không thể tránh để bị quân đội Việt Nam đánh bại. Các chuyên gia quân sự quốc tế bình luận: quân đội Việt Nam có khả năng đánh chìm cả tàu sân bay hoặc các tàu chiến và đánh bại cả lực lượng hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, theo nhận xét của các chuyên gia quân sự thì ngoài sức mạnh chiến đấu cực kỳ lão luyện trên mặt đất, nếu sức mạnh chiến đấu của hải quân và không quân đủ năng lực, quân đội Việt Nam có thể mở những cuộc tấn công trên đất liền vào Quảng Tây, Vân Nam dọc theo biên giới với Trung Quốc, Trung Quốc có cả hai khó khăn để giải quyết.
_______________
BÀI VIẾT THỂ HIỆN QUAN ĐIỂM CỦA ANH NGỮ THỜI BÁO VÌ VẬY 1 SỐ THÔNG TIN VẪN CHƯA CHUẨN XÁC

Dư luận phê phán chính sách biển ngang ngược của Trung Quốc


Chủ trương xây dựng Trung Quốc thành cường quốc biển đang là nguyên nhân gây ra sự căng thẳng, mối quan ngại và thúc đẩy các nước hợp tác chống lại mưu đồ của Trung Quốc.

Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ đại dương. Biển chiếm 71% diện tích bề mặt trái đất, gắn bó khăng khít với sự tồn tại của con người, cũng liên quan chặt chẽ tới sự hưng suy của quốc gia. Nhìn lại lịch sử thế giới, rất nhiều nước trên thế giới đều đã trải qua con đường dựa vào biển để trỗi dậy, nhờ vào biển để cường thịnh. Các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Nhật Bản, Mỹ trỗi dậy đều từ biển. Bước vào thế kỷ 21, địa vị của biển trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao quốc tế lại càng rõ rệt hơn. Tình hình đặc trưng là xung đột và đấu tranh giành giật không gian biển và nguồn lợi biển tăng mạnh trong thế kỷ 21.

Bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của Tổ quốc Việt Nam
Trung Quốc trong lịch sử từ xa xưa đến tận những năm 1980 là cường quốc lục địa. Bốn hiện đại hóa đã thức tỉnh Trung Quốc trong cuộc chạy đua chiếm lĩnh biển. Trung Quốc đã không bỏ phí một chút thời gian nào. Sự kiện nổi bật mới đây là Đại hội 18 ĐCS Trung Quốc đã chính thức hóa chiến lược biển, khi tuyên bố: Trung Quốc quyết tâm “nâng cao năng lực khai thác tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường sinh thái biển, kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích biển của quốc gia, xây dựng cường quốc biển”. Mục tiêu là mở rộng không gian hoạt động cho lực lượng hải quân Trung Quốc và tận lực khai thác tài nguyên, hải sản biển để nuôi sống 1,3 tỷ dân Trung Quốc.
Trong hành động, vô số thế lực chính trị và kinh tế Trung Quốc đã lợi dụng những căng thẳng về lãnh thổ để phục vụ những lợi ích riêng của họ, điều này đã gây sức ép, buộc các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh lên gân lập trường. Theo báo Le Monde Diplomatique (Pháp), nhiều tác nhân Trung Quốc tham gia các phi vụ làm ăn trên Biển Đông, được gọi là “9 con rồng cướp biển”, dựa theo truyền thuyết. Trên thực tế, con số các tác nhân vượt xa so với số lượng con vật huyền thoại kia. Trong số đó có các chính quyền địa phương, Hải quân, Bộ Nông Nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nước, các lực lượng an ninh, thuế quan hay Bộ Ngoại giao.
Chính quyền của các vùng ven biển Hải Nam, Quảng Tây và Quảng Đông lại ra sức tìm đầu ra cho các sản phẩm xí nghiệp của họ vì nếu thành công, chỗ đứng của họ trong bộ máy Nhà nước sẽ được đảm bảo. Chừng nào họ càng bày tỏ cứng rắn, họ còn được giao quyền quản lý công việc địa phương. Những ham muốn càng được kích thích bởi sự kết hợp của một chính sách tăng trưởng với một quyền tự trị lớn hơn của các nhà chức trách địa phương. Đó là lý do tại sao họ khuyến khích các ngư dân của nước họ xâm nhập sâu hơn nữa vào các vùng biển tranh chấp, đặc biệt là bằng cách bắt ép các ngư dân phải hiện đại hóa tàu bè của mình và trang bị các hệ thống dò đường bằng vệ tinh. Việc ưu tiên cấp giấy phép đánh cá cho các tàu đánh cá lưới rê cỡ lớn nhất chính là một sự kêu gọi khác theo hướng này.
Nội hàm “cường quốc biển” của Trung Quốc là gì?
Báo Hải dương Trung Quốc số ra gần đây đăng bài viết của Cục trưởng Cục hải dương quốc gia Trung Quốc về một số vấn đề cần xem xét liên quan đến công tác xây dựng cường quốc biển theo tinh thần mà Đại hội 18. Ngày nay Trung Quốc xác định họ vừa là nước lớn lục địa, cũng vừa là nước lớn về biển.
Nội hàm “cường quốc biển” của Trung Quốc gồm 5 phương diện là nhận thức về biển, sử dụng biển, sinh thái biển, quản lý biển và biển hài hòa.

Trung Quốc vươn tới tận Nam Mỹ trong hoạt động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế trên biển của nước khác: Tàu cảnh sát biển Argentina đang áp tải ra khỏi hải phận hai tàu đánh cá Trung Quốc đánh bắt hải sản bất hợp pháp tại vùng biển của nước này hồi cuối năm 2012
Về nâng cao nhận thức về biển, giới lãnh đạo Bắc Kinh chủ trương tăng cường nghiên cứu khoa học biển. Họ chủ trương tăng cường nghiên cứu gien sinh vật dưới biển sâu, nâng cao trình độ nghiên cứu công nghệ thăm dò biển. Trung Quốc chủ trương đào tạo nhân lực mới về công nghệ biển, quản lý ngành biển, nhân tài nghiên cứu cơ sở về biển. Trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài mũi nhọn theo mô hình sáng tạo, hoàn thiện thể chế, cơ chế về công tác nhân tài biển. Bắc Kinh chủ trương mở rộng công tác văn hóa biển và tuyên truyền về biển, mở rộng diện phổ cập kiến thức về khoa học công nghệ biển, kinh tế biển và pháp luật biển, đào tạo, tích lũy và phát huy tinh thần biển.
Về sử dụng biển, chú trọng phát triển mở mang kinh tế biển, trù tính chung cả đất liền và biển, hoàn thiện hệ thống phân định khu chức năng biển cấp quốc gia và cấp tỉnh, làm tốt quy hoạch phát triển ngành nghề biển, quy hoạch kinh tế biển, quy hoạch bảo vệ biển đồng thời với những quy hoạch khác, liên kết phối hợp giữa các khu quy hoạch. Nhằm nâng cao trình độ khai thác sử dụng biển, xoay quanh một số mặt như: Cải tạo, nâng cấp ngành nghề biển, cải thiện, khắc phục những khó khăn, bế tắc gặp phải trong quá trình đào tạo con người, giúp đỡ ngành nghề biển mới nổi, mở rộng phối hợp giữa sản xuất, học tập, nghiên cứu, thúc đẩy phát triển kinh tế biển vừa tốt vừa nhanh; khai thác nguồn tài nguyên sinh vật biển, tập trung đột phá vào kỹ thuật đánh bắt cá biển, kỹ thuật nuôi trồng trong môi trường nước biển, kỹ thuật chăm sóc cây trồng có khả năng chịu mặn, làm cho tỉ lệ đóng góp của kỹ thuật trong khai thác sử dụng biển tiếp tục được nâng cao.
Cuộc xâm lấn trên giấy tờ – hành động cướp đất mới nhất của Bắc Kinh
Báo Dân tộc của Thái Lan mới đây đăng bài “Cuộc xâm lấn trên giấy tờ của Trung Quốc”, trong đó bình luận rằng một liên minh ứng phó đang hình thành để phản đối hành động cướp đất mới nhất của Bắc Kinh qua việc in bản đồ vào hộ chiếu Trung Quốc. Việt Nam, Philippines, Ấn Độ và Đài Loan đã kịch liệt phản đối hộ chiếu mới của Trung Quốc. Giáo sư nghiên cứu Đông Á Bruce Jacobs của Trường đại học Monash Australia nhận xét: “Bản đồ này khẳng định bản tính ngang ngược ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc đưa ra tuyên bố đối với các vùng lãnh hải tranh chấp”. Mỹ cho rằng bản đồ trong hộ chiếu mới là “nguyên nhân gây ra sự căng thẳng và mối lo ngại” trong số các nước tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Việt Nam và Philippines đã từ chối đóng dấu thị thực cho các hộ chiếu mới của Trung Quốc và thay bằng việc tạo ra một mẫu thị thực riêng, trong khi Đài Loan thì bác bỏ biên giới biển trong bản đồ nói trên.
Ấn Độ, nổi giận với bản đồ thể hiện 2 bang Arunachal Pradesh và Aksai Chin ở khu vực Himalaya thuộc lãnh thổ Trung Quốc, đang cấp thị thực cho công dân Trung Quốc với dấu nổi in hình bản đồ riêng của New Delhi.
Sau việc đột ngột thúc đẩy hành động của Trung Quốc cướp đất ở Biển Đông, một liên minh an ninh đặc biệt đang nổi lên giữa Nhật Bản và các nước ASEAN tuyên bố chủ quyền, gồm Việt Nam và Philippines, nhằm ngăn chặn hành động xâm lược hung hăng của Trung Quốc thông qua ngoại giao hoặc các biện pháp có khả năng khác. Giám đốc Học viện nghiên cứu Đông Á Yoshide Soeya thuộc Trường đại học Keio Tokyo cho biết: “Chúng tôi muốn xây dựng một liên minh ứng phó của riêng mình tại châu Á nhằm ngăn chặn việc Trung Quốc đang lấn lướt”.

Trung Quốc lo ngại Việt Nam áp dụng Luật Biển

Trong khi ngang nhiên đưa tàu hải giám ra tuần tra vùng tranh chấp đồng thời thực thi một luật bị cộng đồng quốc tế phản đối, Trung Quốc vẫn ngang ngược yêu cầu Việt Nam không được áp dụng Luật Biển mới. 
Sau khi được văn phòng Chủ tịch nước công bố ngày 16/7/2012, hôm 1/1/2013, Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực thi hành. Luật này sẽ giúp tăng cường cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.
Bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của Tổ quốc Việt Nam
Bảo vệ chủ quyền Biển Đảo của Tổ quốc Việt Nam
Với 7 Chương và 55 Điều, Luật Biển Việt Nam có đầy đủ các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam…
Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển theo đúng tinh thần UNCLOS – bản “hiến pháp đại dương”, buộc mọi tổ chức, cá nhân phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan khi hoạt động trong vùng chủ quyền của Việt Nam.
Phản ứng trước việc Luật Biển của Việt Nam chính thức có hiệu lực, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hua Chunyang đã ra một tuyên bố bày tỏ sự “quan ngại và kêu gọi Việt Nam kiềm chế không đưa ra bất kỳ hành động nào nhằm làm phức tạp và leo thang căng thẳng giữa hai nước”. Nữ phát ngôn viên Trung Quốc còn trắng trợn tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.
Những phát biểu phi lý và trắng trợn trên được người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc được đưa ra khi mà chính Trung Quốc đang một mình “khuấy đảo” Biển Đông. Đúng ngày Luật Biển của Việt Nam chính thức có hiệu lực, Trung Quốc đã ngang nhiên đưa hai tàu hải giám ra gần vịnh Bắc Bộ ở khu vực tranh chấp trên Biển Đông để tuần tra.
Trắng trợn hơn, Trung Quốc còn bắt đầu thực thi luật mới cho phép cảnh sát nước này chặn và bắt tàu của các nước khác ở vùng biển tranh chấp.
Trung Quốc lo ngại Việt Nam áp dụng Luật Biển (Ảnh minh họa)
Trung Quốc lo ngại Việt Nam áp dụng Luật Biển (Ảnh minh họa)
Điều đáng “kinh ngạc” là Trung Quốc phản đối và bày tỏ lo ngại với Luật Biển của Việt Nam khi mà luật này được xây dựng tương thích cao với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển – UNCLOS 1982. Tính tương thích này thể hiện rõ trong điều 2.2 của Luật Biển: Trường hợp quy định của luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Mặt khác, theo luật quốc tế, khi phê chuẩn UNCLOS năm 1994, Việt Nam cũng như các quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện đúng các cam kết của mình đối với các quy định của luật Biển. UNCLOS 1982 là công ước khung quan trọng nhất thiết lập một trật tự pháp lý mới công bằng trên biển, bảo đảm tốt nhất quyền lợi biển của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác.
Luật Biển của Việt Nam tôn trọng luật quốc tế và không bị các nước phản đối. Trong khi đó, Trung Quốc lại thực thi một điều luật mới bị một loạt nước phản đối dữ dội. Theo luật này, lực lượng cảnh sát ở tỉnh Hải Nam, phía nam Trung Quốc, được quyền chặn, lên lục soát và chiếm giữ những tàu nước khác mà nước này tuyên bố là “đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc một cách bất hợp pháp”.
Cảnh sát tỉnh Hải Nam cũng được quyền bắt tàu nước khác phải chấm dứt hành trình và đổi hướng khi đi vào vùng tranh chấp mà Trung Quốc tự nhận là thuộc chủ quyền của mình. Trung Quốc đã công bố luật trên từ hồi tháng 11 năm ngoái và nó đã vấp phải sự chỉ trích dữ dội không chỉ từ phía các nước có tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc mà cả các nước khác trong khu vực và các nước phương Tây.
Trung Quốc đòi chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông, nếu thực thi luật này thì khả năng tàu thuyền các nước đụng độ với hải quân Trung Quốc là điều rất dễ xảy ra.
Philippines cho rằng Trung Quốc “đã đi quá xa” trong khi Singapore, Mỹ và ASEAN bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về luật mới của Trung Quốc. Các nhà ngoại giao hàng đầu của ASEAN cảnh báo về khả năng xảy ra đụng độ trên biển. Trong khi đó, Mỹ tuyên bố sẽ yêu cầu Trung Quốc phải giải trình về điều luật trên.
Với những diễn biến ở trên, chắc chắn ai cũng có thể nhận thấy rõ, nước nào mới là nhân tố gây căng thẳng và làm leo thang tình hình ở Biển Đông. Việt Nam luôn thể hiện một lập trường chắc chắn, kiên định trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông, tuân thủ nghiêm túc UNCLOS 1982 và không gây căng thẳng trong khu vực.

Luật biển Việt Nam: Tuyên ngôn về chủ quyền biển đảo


Bắt đầu từ ngày 01/01/2013, Luật biển Việt Nam có hiệu lực thi hành. Việc Luật biển Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua trước đó đã thỏa lòng mong mỏi, đợi chờ của bao thế hệ người Việt Nam. Không những dân tộc Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài mà dư luận quốc tế cũng đều ủng hộ mạnh mẽ.
Nếu như “bài thơ thần” của Lý Thường Kiệt, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là tuyên ngôn về chủ quyền, độc lập của quốc gia thì Luật biển Việt Nam cũng là tuyên ngôn về chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Để Luật biển Việt Nam có sức mạnh thực sự thì điểm quyết định nhất là phải chuẩn bị như thế nào để có đủ khả năng thực thi Luật biển Việt Nam một cách nghiêm túc.
Máy bay CaSa 212 được trang bị hệ thống tuần thám MS 6000 của CSB VN
Máy bay CaSa 212 được trang bị hệ thống tuần thám MS 6000 của CSB VN
Ngày nay, thế của ta đã khác, lực của ta đã đổi. Việt Nam ta hơn lúc nào hết sẵn sàng đem hết tinh thần, nghị lực, tính mạng, tài sản, để bảo vệ chủ quyền biển đảo, chúng ta có đủ khả năng đương đầu với mọi thách thức trên biển. Đó là cơ sở, nguyên nhân, động lực cho Luật biển Việt Nam ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013.
Để Luật biển Việt Nam có tính thực thi là cả một sự chuẩn bị thế và lực cho đất nước, trong đó nổi bật nhất là Cảnh sát biển Việt Nam – lực lượng nòng cốt thực thi Luật biển Việt Nam.
Sự hình thành phát triển của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đến ngày nay như chúng ta đã cảm nhận, vui mừng và tự hào về sự lớn mạnh của nó…có một điều khiến ta tâm đắc, đó chính là nhãn quan chiến lược của Đảng đối với lực lượng này.
Năm 1998, Cục Cảnh sát biển Việt Nam ra đời. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà CHXHCNVN là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCNVN.
Lúc đó Cục CSB chỉ là một Cục trực thuộc Bộ TL Hải quân về mọi mặt. Theo đó, ứng với mỗi vùng Hải quân là mỗi vùng CSB mà nó trực thuộc với một hải đội để “thực thi pháp luật Việt Nam trên biển”. Về trang bị chỉ mấy con tàu cũ của hải quân. Về người thì cũng từ Hải quân…quân số quá nhỏ nhoi so với Hải quân.
Lực lượng trẻ, khỏe, có kiến thức của CSB Việt Nam
Lực lượng trẻ, khỏe, có kiến thức của CSB Việt Nam
Rất ít người biết rằng, tuy tổ chức còn nhỏ, sơ khai nhưng tầm vóc nó sẽ rất lớn, sứ mạng nó sẽ rất nặng nề…Nhưng rất lớn thì lớn ra sao, sứ mạng rất nặng nề là như thế nào, lúc đó, ngay cả người trong cuộc, không phải ai cũng nhận thức được.
Sự “lớn lên” của Cảnh sát biển Việt Nam được ghi nhận bởi 2 điểm mốc quan trọng. Bắt đầu là các vùng CSB tách ra khỏi các vùng Hải quân năm 2000, tiếp theo năm 2008 toàn bộ Cục CSB tách ra khỏi quân chủng Hải quân để trực thuộc Bộ quốc phòng.
Có thể nói, Cảnh sát biển Việt Nam là từ Hải quân sinh ra và nuôi dưỡng. Mỗi lần “tách” khỏi Hải quân là mỗi lần chứng kiến lực lượng CSB “đủ lông đủ cánh” có khả năng để hoàn thành nhiệm vụ có tính chất khác biệt với Hải quân. Đến hôm nay có thể nói, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã phát triển vượt bậc, hiện đại hóa nhanh chóng phương tiện trang bị, cơ cấu tổ chức và con người.
Mới 15 năm, nhưng những người lính Hải quân từ những ngày đầu tiên cởi bỏ bộ quân phục Hải quân khoác lên mình quân phục Cảnh sát biển cũng cảm thấy ngỡ ngàng bởi sự lớn mạnh của nó. Giờ đây, CSB Việt Nam đã trở nên cứng cáp, bản lĩnh, tự tin sẵn sàng nhận và hoàn thành một nhiệm vụ mà Tổ quốc giao cho, đó là thực thi pháp luật Việt Nam trên biển.
Có lẽ bây giờ chúng ta đã hiểu tầm nhìn xa của Đảng trong công cuộc bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đó là công tác tổ chức xây dựng và phát triển lực lượng, tạo thế và lực cho đất nước đủ sức đương đầu với các tình huống.
Cảnh sát biển Việt Nam, được sinh ra, đầu tư, chăm lo phát triển như thế nào để bây giờ lực lượng này đảm nhận được trọng trách giao phó khi Luật biển Việt Nam ra đời trong bối cảnh khu vực đầy biến động…là một chứng minh hùng hồn cho sự sáng suốt nhìn xa, trong rộng của Đảng.
Để thực thi Luật biển Việt Nam có hiệu quả, từ những ngư dân can trường ngày đêm bám biển khẳng định chủ quyền, đến lực lượng bộ đội biên phòng, lực lượng Kiểm ngư (mới thành lập) và Cảnh sát biển Việt Nam là nòng cốt, trong tình hình khu vực biển Đông có sự tranh chấp diễn ra rất gay gắt thì không phải là dễ dàng.
Tàu CSB Việt Nam ngày càng được trang bị tối tân hiện đại tầm cỡ quốc tế.
Tàu CSB Việt Nam ngày càng được trang bị tối tân hiện đại tầm cỡ quốc tế.
Nhưng chúng ta có chính nghĩa, bởi Luật biển Việt Nam hoàn toàn phù hợp với “Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982” mà hầu hết các nước trong khu vực là thành viên. Do đó chúng ta thực thi Luật biển Việt Nam là hành động chính đáng, chính nghĩa.
Với một đất nước hơn 3 ngàn km bờ biển, cùng với hiện đại hóa lực lượng Hải Quân để bảo vệ biển đảo thân yêu của Tổ quốc, chúng ta cần phải tăng cường sức mạnh cho lực lượng Cảnh sát biển làm nòng cốt cho lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam trên biển.
Hơn lúc nào hết, sự ra đời của Luật biển Việt Nam đã làm cho sứ mạng của Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng và các lực lượng khác sẽ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh quang. Sự yên bình của ngư dân, luật pháp Việt Nam trên biển được thực thi nghiêm túc hay không, có một phần không nhỏ của sự hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam.

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII tại phiên họp cuối ngày 21-6-2012 của kỳ họp thứ ba đã bỏ phiếu thông qua Luật Biển với số phiếu tán thành là 495/496.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Luật Biển Việt Nam có bảy chương, 55 điều với việc xác định chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa…được ghi ngay trong điều 1. Luật Biển bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2013.
Đây là một sự kiện lớn, một tin vui lớn, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình phát triển đất nước hiện nay, thỏa mãn tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Luật Biển là một văn kiện pháp lý vô cùng quan trọng và cần thiết của đất nước ta để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển quốc gia, tạo cơ sở và hành lang pháp lý cao nhất cho mọi công việc sử dụng, khai thác và bảo vệ vùng biển nước nhà.
Những nội dung chính của Luật Biển Việt Nam
Luật Biển Việt Nam gồm có bảy chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013.
Chương 1 gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.
Chương 2 quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo…
Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam, trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam, hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…
Chương 4 của Luật Biển Việt Nam dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương 5 của Luật quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu.
Chương 6 quy định về xử lý vi phạm. Chương này bao gồm các điều khoản về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp ngăn chặn, thông báo cho Bộ Ngoại giao và xử lý vi phạm.
Chương 7 quy định về điều khoản thi hành.
 Xem chi tiết: Toan-van-luat-bien-viet-nam-2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Có ý kiến gì không?