Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Campuchia và cuộc chiến Việt - Trung

Cập nhật: 18:53 GMT - chủ nhật, 24 tháng 2, 2013

Binh lính Việt Nam rời Battambang hôm 22/9/1989
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia năm 1989, 10 năm sau cuộc chiến Việt-Trung
Cuộc chiến Việt Trung trong nửa cuối tháng Hai và đầu tháng Ba năm 1979 bị xem là không được một bộ phận đáng kể giới nghiên cứu phương Tây để mắt tới.
Nhưng cũng không vì thế mà cuộc chiến gần một tháng giữa hai nước cộng sản láng giềng với hàng vạn thương vong bị lãng quên với một bài viết gần đây đặt lại câu hỏi về mối liên hệ giữa Campuchia và cuộc chiến biên giới 1979.
Đó là bài viết của tác giả Harry Booty, Chủ tịch Hội Nghiên cứu Chiến tranh của sinh viên trường Kings College London, được công bố trong những tháng cuối năm 2012.
Harry Booty nói có nhiều ý kiến cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn tới xung đột năm 1979 là việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia hồi cuối tháng 12/1978 và lật đổ chế độ Pol Pot hồi đầu tháng 1/1979.
"Khi mở 'cuộc chiến trừng phạt', Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam và cả bản thân một bài học."
Giáo sư Chen C. King
Tuy nhiên ông Booty, người viết bài theo đơn đặt hàng của Tiến sỹ Peter Busch, Giảng viên cao cấp Khoa Nghiên cứu Chiến tranh của Kings College London, Bấm nhận định rằng cần đặt cuộc chiến của Việt Nam ở Campuchia trong bối cảnh của mối quan hệ đã xấu đi trông thấy giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như bối cảnh quốc tế lúc xảy ra sự kiện tháng Hai năm 1979.
Ngoài chuyện Việt Nam lật đổ Khmer Đỏ, chế độ coi Trung Quốc là "người bạn hùng mạnh và đáng tin cậy nhất", cây viết ở Kings College London nhắc tới một loạt các yếu tố khác.
Trong số các cân nhắc của Trung Quốc có mong muốn một Đông Dương phân tán của chính họ, sự lo ngại vòng vây của Liên Xô từ các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh, các sự cố dọc biên giới Việt - Trung tăng đột biến trong thời gian trước khi xảy ra cuộc chiến, sự đối xử tệ bạc với người gốc Hoa ở Việt Nam cũng như lịch sử sóng gió giữa hai nước láng giềng.
Nỗi lo sợ về chuyện Liên Xô sẽ lấp khoảng trống mà Hoa Kỳ để lại tại Đông Dương dường như được xem như lăng kính mà qua đó giới lãnh đạo Trung Quốc nhìn các vấn đề khác.
Harry Booty đưa ra vấn đề Hà Nội ngược đãi người Hoa làm ví dụ.
Cây viết sinh viên này dẫn các nghiên cứu cho thấy trong số hai triệu người bị Khmer Đỏ diệt chủng, có tới 200.000 người gốc Hoa.
Mặc dù vậy Bắc Kinh đã sẵn sàng bỏ qua vấn đề này vì thấy cần phải làm vậy.
Ông Booty nói Trung Quốc nhìn cách đối xử với người gốc Hoa của Việt Nam như một chỉ dấu nữa cho thấy Hà Nội đang cùng với Liên Xô gây "phương hại những lợi ích chiến lược quan trọng của Trung Quốc."

Cả hai cùng học

Harry Booty cho rằng Bắc Kinh luôn muốn có một Đông Dương phân tán và trong bối cảnh Lào và Việt Nam đã ký hiệp định hợp tác trong tháng 9/1977, việc Việt Nam tiến quân vào Campuchia đã cho Trung Quốc cái cớ trực tiếp nhất để gây chiến.
Cựu binh Nguyễn Duy Vinh tại nghĩa trang quân đội hôm 17/2/2013
Hàng vạn lính Việt Nam đã nằm xuống trong 16 ngày giao tranh hồi năm 1979
Mặc dù vậy, tác giả xem đây như lý do "ngắn hạn" và nguyên nhân căn bản vẫn là chuyện Trung Quốc xem Việt Nam như "mối đe dọa" thay vì như đồng minh:
"Nói cách khác, chúng ta có thể nhận xét rằng nếu Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ tốt hơn thì Bắc Kinh sẽ không lo ngại về sự thống lĩnh của Việt Nam ở sườn phía nam của họ."
Trên thực tế một số nhà quân sự Việt Nam coi các cuộc tấn công của Pol Pot vào Việt Nam là "cuộc chiến mượn tay người khác" của chính Trung Quốc.
Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên trưởng phòng tác chiến của Quân chủng phòng không trong giai đoạn xảy ra cuộc chiến 1979, thậm chí nói rằng Việt Nam đã "chiến thắng Trung Quốc" khi đánh bại Khmer Đỏ.
Trong cuộc chiến biên giới 1979, cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố thắng lợi, nhưng một nghiên cứu công bố vài năm sau khi cuộc chiến kết thúc nói không bên nào đạt được các mục tiêu chính đề ra.
Báo cáo 'China's War Against Vietnam, 1979: A Military Analysis' (Cuộc chiến của Trung Quốc Chống Việt Nam, 1979: Phân tích Quân sự) của Giáo sư Chen King từ Đại học Rutgers, Hoa Kỳ nói Trung Quốc chỉ phần nào đạt được các mục tiêu đề ra.
Ông King viết: "Trước hết, Trung Quốc đã không tiêu diệt được một vài sư đoàn mạnh của Việt Nam.

Tổn thất chiến tranh


Trung Quốc Việt Nam
Thiệt mạng 26.000 30.000
Bị thương 37.000 32.000
Tù binh 260 1.638
Xe tăng, xe bọc thép 420 185
Súng và pháo hạng nặng 66 200
Cụm tên lửa 0 6
Chen C. King tổng hợp

"Thứ hai, họ đã không thể đảm bảo cho vùng biên cương yên bình khỏi các xung đột vũ trang.
"Thứ ba, họ không buộc được Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia.
"Thứ tư, họ không gây ảnh hưởng được tới chính sách của Việt Nam đối với người Trung Quốc ở Việt Nam."
Nhưng vị giáo sư cũng nói Trung Quốc đã làm Hà Nội nghi ngờ độ sẵn sàng can thiệp vũ lực chống lại Trung Quốc để bảo vệ đồng minh của Liên Xô, tranh thủ được phần nào sự ủng hộ của khối ASEAN trong cố gắng ngăn Việt Nam tiến vào Đông Nam Á và gây khó khăn lập tức cho nền kinh tế Việt Nam.
Mặc dù Bắc Kinh tuyên bố đã dạy được Việt Nam 'bài học', ông Chen King cho rằng điều này cũng đúng với cả Trung Quốc.
Cho dù nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình có vẻ quan tâm hơn tới mục tiêu địa chiến lược so với thành công quân sự của cuộc chiến, tác giả King nhận định:
"Khi mở 'cuộc chiến trừng phạt', Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam và cả bản thân một bài học.
"Giới quân sự Bắc Kinh chắc hẳn đã kết luận rằng Giải phóng Quân Nhân Dân không thể tiến hành một cuộc chiến hiện đại trước khi họ hiện đại hóa về cả vũ khí và chiến lược."
Tác giả nói các cố gắng hiện đại hóa về cả vũ khí và đào tạo chiến lược đã được đẩy nhanh và có thể thấy các kết quả ban đầu ngay từ đầu năm 1982 với sự xuất hiện của các tên lửa tầm xa và số máy bay cũng như tàu ngầm.

Nhìn từ Trung Quốc

Một số học giả Trung Quốc cũng đã nhìn nhận mức độ thương vong quá lớn của quân đội Trung Quốc và cách tổ chức chiến trận thiếu hiệu quả trong cuộc chiến 1979.
Các video trên mạng xã hội Youku của Trung Quốc trong khi đó nhắc tới sự giúp đỡ của họ trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ của Việt Nam trong đó "nhiều máu của người Trung Quốc" đã đổ.
Tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc nói 16 sư đoàn lính phòng không của Trung Quốc với tổng cộng trên 150.000 quân đã tham gia các chiến dịch quân sự ở Việt Nam trong giai đoạn 1965-1969.
Số quân này được cho là đã tham gia hơn 2.100 trận đánh, bắn rơi hơn 1.700 máy bay Hoa Kỳ và gây hư hại cho hơn 1.600 chiếc khác.
Trong số quân tham chiến trong giai đoạn này có cả lính từ hai Đại Quân khu Quảng Châu và Côn Minh, hai lực lượng đã hình thành hai gọng kìm tiến vào Việt Nam trong năm 1979 như trong video trên đây.
"Bắc Kinh được xem là luôn có phong cách của một nước "bề trên" trong quan hệ với Việt Nam trong khi cách hành xử hiện nay của Hà Nội cho thấy họ chưa cảm thấy đủ sự tự tin để có quan hệ ngang hàng với Bắc Kinh."
Thuyết minh trong video cũng nói Việt Nam đã có những chính sách bài Trung Quốc để làm hài lòng Liên Xô và coi các lãnh đạo Việt Nam là những "kẻ sát nhân".
Các nhà nghiên cứu cũng nói quan hệ quá gần gũi giữa Việt Nam và Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ cũng chính là lý do khiến hai bên có những bất đồng.
Trung Quốc đã rút toàn bộ quân khỏi Việt Nam trong năm 1969 sau khi Hà Nội giữ quan điểm đàm phán với Washington bất chấp phản đối của Trung Quốc.
Về phía Hà Nội, giới nghiên cứu nói Hồ Chí Minh và các lãnh đạo miền Bắc luôn đề nghị được Trung Quốc giúp đỡ và sẵn sàng nhận giúp đỡ từ Bắc Kinh mà không chấp nhận coi nước láng giềng là tấm gương để phát triển.
Hà Nội cũng không chịu chọn giữa Trung Quốc và Liên Xô, thậm chí đã ngả hẳn về phía Liên Xô trước khi cuộc chiến biên giới nổ ra.
Một trong các tướng lĩnh cao cấp của Việt Nam sau này được các nhà nghiên cứu dẫn lời nói một trong những bài học từ cuộc chiến 1979 là Hà Nội cần "học cách sống cạnh người láng giềng lớn".
Bắc Kinh được xem là luôn có phong cách của một nước "bề trên" trong quan hệ với Việt Nam trong khi cách hành xử hiện nay của Hà Nội cho thấy họ chưa cảm thấy đủ tự tin để có quan hệ ngang hàng với Bắc Kinh.

 BBC xin giới thiệu lại một số tư liệu lịch sử nước ngoài về sự tham gia của Liên Xô và Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là trong các trận chiến phòng không, không quân trên miền Bắc chống lại Không lực Hoa Kỳ.

Hàng vạn quân Trung Quốc

Bob Seals trong một bài đăng trên trang Military History hồi 2008 đã trích nhiều từ các tác giả Trung Quốc có sách xuất bản ở Phương Tây, Địch Cường (Qiang Zhai) và Lý Hiểu Binh (Li Xiaobing) viết rằng Bắc Kinh tiếp tục hỗ trợ cho Hà Nội sau chiến tranh Đông Dương lần 1 dù viện trợ quân sự giai đoạn chiến tranh Đông dương lần 2 (1965-1975) có mục tiêu chính trị khác trước.
Đặc biệt, sự dính líu quân sự của Trung Quốc vào thời gian chiến tranh Mỹ Việt khác cuộc chiến Pháp Việt ở chỗ có sự hiện diện của hàng vạn quân Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam, chủ yếu trong các binh chủng công binh và phòng không.
"Đỉnh điểm của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là năm 1967, khi tổng số lực lượng phòng không lên tới 17 sư đoàn, với 150 nghìn quân"
“Tài liệu tối mật của CIA ghi nhận bảy đơn vị lớn của Quân Giải phóng Trung Quốc (PLA) tại Bắc Việt, gồm sư đoàn phòng không 67, và con số ước tính 25 đến 45 nghìn quân tác chiến Trung Quốc cả thẩy.
"Ngoài phòng không, PLA còn cung cấp tên lửa, đạn pháo, hậu cần, đường xe lửa, xe phá mìn và các đơn vị công binh hàn gắn lại cơ sở hạ tầng bị các đợt oanh kích của Hoa Kỳ phá hủy.”
Giới nghiên cứu lịch sử chiến tranh Việt Nam cho rằng đây là vai trò rất quan trọng vì từ năm 1965 đến 1972, Hoa Kỳ đã ném hơn một triệu tấn bom xuống miền Bắc Việt Nam.
Sau chiến tranh chỉ còn lại chút ít dấu tích các điểm phòng không với vũ khí Trung Quốc ở Việt Nam
Đỉnh điểm của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là năm 1967, khi tổng số lực lượng phòng không lên tới 17 sư đoàn, với 150 nghìn quân.
Bài trên Military History cũng nói phía Trung Quốc cho rằng họ đã bắn hạ 1707 máy bay Mỹ trên vùng trời Việt Nam.
Nhưng dù trước đó, ông Hồ Chí Minh đã đề nghị ông Mao Trạch Đông trợ giúp quân sự, quan hệ Trung – Việt có chiều hướng xấu đi từ 1970 vì lý do bất đồng quanh Hòa đàm Paris.
Ngoài ra, quan hệ Trung - Việt cũng chịu ảnh hưởng của bang giao Trung – Xô không còn tốt, với việc tiếp cận Washington của Bắc Kinh, và Trung Quốc bắt đầu rút dần quân của họ về nước.
Dù vậy, Bắc Kinh lại tiếp tế mạnh cho Hà Nội từ sau chiến dịch Xuân – Hè 1972 (Hoa Kỳ gọi là Easter Offensive, hay Mùa Hè Đỏ Lửa theo cách gọi của Việt Nam Cộng hòa), khi lực lượng cộng sản miền Bắc thiệt hại nặng, mất tới 450 xe tăng và chừng 100 nghìn quân.
Đợt tấn công của quân Bắc Việt ở miền Nam bằng 20 sư đoàn, đông hơn số quân Tướng Patton chỉ huy thời Thế chiến 2 tại châu Âu, đã phải trả một cái giá khủng khiếp, theo đánh giá của Hoa Kỳ.
Nhưng từ năm 1973, Trung Quốc lại cung cấp cho Việt Nam về vũ khí và xe tăng đủ phục hồi 18 sư đoàn, góp phần vào trận tấn công cuối cùng, đem lại thắng lợi cho Hà Nội vào tháng 4/1975.

Quân Liên Xô bắn máy bay Mỹ

Từ sau Chiến tranh Lạnh đã bắt đầu xuất hiện tin tức hoặc sử liệu nói về sự hiện diện của quân đội Liên Xô tại miền Bắc Việt Nam.
Hồi 2008, nhân chuyện Thượng nghị sỹ John McCain ra tranh cử tổng thống Mỹ, hãng tin Nga (RIA Novosti) đưa tin một cựu phi công Liên Xô, ông Yury Trushvekin, nói chính ông là người đã bắn hạ phi cơ của ông John McCain trên bầu trời Hà Nội năm 1967.
Ông John McCain thăm lại Hà Nội, nơi có trưng bày ảnh ông bị bắn rơi năm 1967
Nhưng hãng tin Nga cũng nói sự hiện diện của quân đội Liên Xô tại Bắc Việt Nam hồi đó “chưa bao giờ được công nhận chính thức” dù sau khi Liên Xô tan rã các nhóm “cựu chiến binh từ Việt Nam’ của Nga vẫn làm lễ kỷ niệm không chính thức.
Có vẻ như khác với người Trung Quốc, các sỹ quan và binh sỹ Liên Xô đã tác chiến cùng đồng đội Việt Nam, như theo lời kể của ông Trushvekin.
Trong một bài gần đây trên trang topwar.ru bằng tiếng Nga được một số trang mạng tiếng Việt dịch lại, một cựu sỹ quan Nga khác đã xác nhận chuyện cùng chiến đấu và sinh hoạt với bộ đội Việt Nam.
Ông Nicolai Kolesnhik, một cựu chiến binh Nga ở Việt Nam, trả lời trang web của Nga, nói từ năm 1965, ông cùng các đơn vị Liên Xô tham gia phòng thủ Bắc Việt Nam bằng tên lửa chống lại không quân Hoa Kỳ.
Ông Kolesnhik cũng nói về sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô rất lớn "khoảng hai triệu USD một ngày trong suốt tất cả những năm chiến tranh" và trong đó vũ khí, khí tài chiếm số lượng lớn.
"Hai nghìn xe tăng, bảy nghìn pháo và súng cối, hơn năm nghìn súng cao xạ phòng không, 158 tổ hợp tên lửa phòng không, hơn 700 máy bay, 120 máy bay trực thăng, hơn 100 tàu chiến," ông Koleshnik nói.
Ông cũng cho biết: "Từ tháng 7/1965 đến cuối 1974 gần 6500 nghìn sĩ quan và tướng lĩnh và hơn 4500 binh lính hạ sĩ quan của các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia tác chiến tại Việt Nam."
Trung tướng Phạm Tuân và các khách Nga thăm Hà Nội nhân kỷ niệm trận đánh nổi tiếng Linebacker II/Điện Biên Phủ trên không
Nhưng nếu như sự hiện diện quân sự của Trung Quốc không còn sau cuộc chiến Mỹ - Việt, Liên Xô tiếp tục có mặt về quân sự dù ít hơn về quân số tại Việt Nam và ở cả Campuchia trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương lần thứ ba.
Liên Xô cũng hỗ trợ nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản và là thành viên khối Hiệp ước Warsaw do Moscow chỉ đạo chống trả lại cựu đồng minh là Trung Quốc trong giai đoạn xảy ra xung đột biên giới Việt - Trung năm 1979.
Và ngày nay, với căng thẳng trên Biển Đông lên cao, Hà Nội tiếp tục mua các vũ khí tối tân trị giá hàng tỷ USD từ Moscow để phòng thủ biển đảo.
Thăm lại Hà Nội nhân dịp 40 năm đợt không tập của Hoa Kỳ, Trung tướng Nga, Anatoly Ivanovich Khiupenen, trưởng đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam từ 1972 đến 1975, tin tưởng rằng ngày nay "không nước nào có thể thắng cuộc chiến tại Việt Nam", theo  báo chí nước chủ nhà.
Có vẻ như sự trở lại của người Nga giúp Hà Nội tự tin hơn một khi có xảy ra xung đột trong khu vực Đông Nam Á, nơi Trung Quốc đang có những động thái nhằm làm chủ các vùng biển tranh chấp với Việt Nam và một số nước Asean.


'Lẽ ra nhà nước phải tưởng niệm 17/2'

Cập nhật: 16:32 GMT - chủ nhật, 17 tháng 2, 2013

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Tướng Vĩnh nói chính quyền đã quên những người ngã xuống chống xâm lược
Cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc trong giai đoạn 1974-1987, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh phê phán nhà nước 'lảng tránh' kỷ niệm ngày Trung Quốc khởi động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam ở biên giới phía Bắc của nước này vào ngày 17/2/1979.
Trao đổi với BBC từ Hà Nội hôm Chủ nhật, 17/2/2013, Tướng Vĩnh cho rằng nhà nước "lẽ ra" phải đứng ra tưởng niệm các "đồng bào, chiến sỹ đã hy sinh" nhưng ngược lại đã "không hề đoái hoài" trong khi vẫn kỷ niệm các sự kiện trong chiến tranh với người Pháp và người Mỹ.
Vị cựu Đại sứ cũng bình luận về sự kiện của đa số báo chí, truyền thông chính thức trong nước tỏ ra "im lặng" và cho rằng nhiều tờ báo Việt Nam có thể đã chịu sức ép từ sự "chỉ đạo" của các cơ quan lãnh đạo báo chí, truyền thông, với các tổng biên tập báo "sợ bị mất ghế" nếu đề cập sự kiện.
Tướng Vĩnh cũng bình luận về việc sách giáo khoa ở nhà trường phổ thông Việt Nam được cho là không phản ánh và đề cập cuộc chiến giữa hai quốc gia láng giềng cộng sản trong chương trình giáo dục, cũng như nhận xét về việc phải chăng chính quyền Việt Nam quan ngại Trung Quốc "mếch lòng" và "trừng phạt" nếu nhắc lại cuộc xung đột 34 năm về trước.
Mở đầu cuộc trao đổi với BBC Việt ngữ, vị tướng năm nay 98 tuổi tường thuật việc ông và một đoàn nhân sỹ, trí thức và quần chúng bị lực lượng an ninh ngăn cản khi định dâng hương ở Tượng đài Liệt sỹ ngay trước lăng cố Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội hôm Chủ Nhật.
"Đáng nhẽ ra việc đó nhà nước phải đứng ra viếng mới phải. Đằng này nhà nước từ mấy năm nay không hề đoái tưởng đến đồng bào, chiến sỹ đã hy sinh trong việc chống lại sự xâm lược của TQ"
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Tướng Vĩnh: Chúng tôi nhớ tới ngày 17/2/1979, Trung Quốc họ đánh chúng tôi. Họ đưa 60 vạn quân tới đánh, giết hại đồng bào tôi và tàn phá mấy tỉnh biên giới của chúng tôi. Chúng tôi nhớ ngày đó, chúng tôi thương tiếc các chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong trận đánh đó. Chúng tôi có mấy người đến dâng hương ở Đài Liệt sỹ trên đường Hoàng Diệu. Nhưng rồi công an không cho chúng tôi vào.
Họ nói lý do này khác, rồi gọi điện thoại đi ở đâu không biết. Lúc họ nói vào cửa trước, lúc họ bảo vào cửa sau. Có lúc họ bảo vào 4 người thì được, 5 người không được. Loanh quanh, cuối cùng họ cấm không cho chúng tôi vào. Thì chúng tôi mấy người thương sót đồng bào và chiến sỹ hy sinh đó, chúng tôi đứng ở ngoài vái vái, rồi đi về thôi.
Chúng tôi rất tiếc, không hiểu tại làm sao đối với các liệt sỹ và đòng bào hy sinh mà người ta cấm chúng tôi không được viếng là thế nào. Đáng nhẽ ra việc đó nhà nước phải đứng ra viếng mới phải. Đằng này nhà nước từ mấy năm nay không hề đoái tưởng đến đồng bào, chiến sỹ đã hy sinh trong việc chống lại sự xâm lược của Trung Quốc.
Chúng tôi lấy làm lạ lắm, mấy năm nay, đáng lẽ chính phủ phải làm việc đó. Đến bây giờ, ngày đó, chúng tôi tỏ lòng thương sót đồng bào và chiến sỹ ta hy sinh, chúng tôi đến viếng một cách hòa bình, chúng tôi không làm gì cả, chúng tôi không hiểu vì sao lại cấm chúng tôi, không được vào viếng. Tôi không hiểu cấp trên nào mà lại vô cảm đến như thế.

'Sợ TQ mếch lòng?'

BBC: Thưa ông, hay có ai đó lo ngại những cuộc tưởng niệm như vậy có thể làm "kích động tính dân tộc chủ nghĩa" và làm cho Trung Quốc mếch lòng, rồi có thể dẫn tới trừng phạt họ?
Đoàn tưởng niệm 17/2 ở Hà Nội
Đoàn tưởng niệm 17/2 ở Hà Nội đang 'vái vọng' sau khi bị an ninh ngăn cản không cho vào Đài tưởng niệm
Tướng Vĩnh: Tôi nghĩ rằng đó là việc của Việt Nam thì Việt Nam làm. Việc gì phải sợ Trung Quốc không bằng lòng. Hay việc gì phải theo ý kiến của Trung Quốc.
BBC: Tại sao ở Việt Nam vẫn có những cuộc kỷ niệm Điện Biên Phủ, hay Điện Biên Phủ trên không, và gần đây là sự kiện Tết Mậu Thân 1968, trong khi Việt Nam vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với Pháp hay Mỹ, mà sự kiện 17/2/1979 chính quyền lại im lặng và không có chủ trương kỷ niệm?
Tướng Vĩnh: Tôi cho việc ấy là một việc rất không bình thường. Nhưng muốn hỏi tại sao thì đề nghị các vị hỏi các nhà cầm quyền mới được.
BBC: Việc sách vở giáo khoa ở nhà trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay có vẻ 'vắng bóng đề cập' cuộc chiến với Trung Quốc năm 1979, việc ấy nếu có, thì có đúng không?

"Nhưng tôi tin rằng những người Việt Nam có lương tri thì họ đều muốn đưa lên, để cho con cháu biết chuyện ấy"
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Tướng Vĩnh: Tôi cho là không đúng. Đáng nhẽ ra, nếu chúng ta kỷ nhiệm những ngày đánh với Mỹ, thắng Mỹ, hay ngày Mỹ ném bom B52, thì cũng đồng thời phải kỷ niệm những ngày mà nước ngoài, cụ thể là Trung Quốc, xâm lược chúng ta. Thế mới là công bằng. Tôi không hiểu được các nhà cầm quyền của chúng tôi nghĩ thế nào.
BBC: Khi cuộc chiến 1979 diễn ra và trong suốt thời gian hơn 10 năm, nhiều báo đài ở Việt Nam thường xuyên đưa tin về việc Trung Quốc xâm lược VN trong giai đoạn đó, nhưng hôm 17/2 năm nay, nhiều tờ báo ở Việt Nam im lặng, ông nghĩ thế nào?
Tướng Vĩnh: Khó nhận xét lắm, đó là chuyện rất khó hiểu. Còn các báo chí mà họ không dám đưa tin chắc đã bị các cơ quan phụ trách về tuyên truyền, truyền thông cấm đoán họ thế nào đó. Cho nên họ không dám làm.
Nếu họ làm, họ sẽ mất chức tổng biên tập, cho nên họ sợ, họ không dám làm. Nhưng tôi tin rằng những người Việt Nam có lương tri thì họ đều muốn đưa lên, để cho con cháu biết chuyện ấy.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh giữ cương vị Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc trong thời gian 13 năm từ năm 1974-1987. Những năm gần đây, ông thường xuyên phát biểu, gửi thư, góp ý công khai về nhiều vấn đề chính sách, chiến lược tới chính quyền, trong đó ông lên tiếng kiến nghị về các vụ việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, cho người nước ngoài thuê rừng đầu nguồn, thay đổi Hiến pháp sao cho dân chủ và tự do thực sự v.v...
 

Cuộc chiến biên giới 1979

Cập nhật: 05:17 GMT - chủ nhật, 17 tháng 2, 2013

Dân quân Việt Nam
Ba mươi bốn năm về trước, lúc 5 giờ 25 phút sáng ngày 17/2/1979, tiếng đại pháo của quân Trung Quốc đồng loạt khai hỏa trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, từ Phong Thổ, Lai Châu đến địa đầu Móng Cái, mở đầu một cuộc chiến, mà đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh là “dạy cho quân côn đồ Việt Nam một bài học” như lời của Đặng Tiểu Bình.
Đối với giới lãnh đạo của CS Việt Nam là “trận đánh xâm lược của bọn bá quyền Trung Quốc”, như lời của Tổng bí thư Lê Duẩn.
Còn đối với quốc tế thì đó là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba.
Dù gọi dưới danh xưng gì đi nữa thì cuộc chiến này vẫn là một trong những trận chiến thảm khốc nhất dưới góc độ hủy diệt và dã man trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Không có bất cứ số liệu nào chính thức và đáng tin cậy về con số thương vong của quân dân hai bên tham chiến, tuy nhiên con số mà người ta ước lượng là trên 100 ngàn người cho cả hai phía sau gần 30 ngày giao tranh đẫm máu sau khi Trung Quốc chính thức rút quân vào ngày 16/3/1979.

Thảm khốc

Trên đường tấn công, quân Trung Cộng nã súng không thương tiếc đối với bất kỳ ai, bất kỳ vật gì mà họ gặp trên đường tiến quân.
Sư đoàn 163 của họ nhận được lệnh từ cấp trên là “sát cách vô luận” tức“ giết người không bi buộc tội” do vậy lính Trung Cộng đã thẳng tay sử dụng đại bác, hỏa tiển, súng phun lửa, mìn và kể cả xăng để tiêu diệt từ làng này sang làng khác, hết chục người này đến trăm, đến ngàn người khác.
Nếu như, ở Bát Xát, thuộc Lào Cai, hàng trăm phụ nữ bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang, thì tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9/3/1979, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người gồm 23 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai.
Tất cả đều bị giết bằng dao. 10 người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.
Bộ đội Việt Nam
Việt Nam đã ra lệnh tổng động viên thanh niên vào quân ngũ
Kết quả đó đã được Đặng Tiểu Bình hả hê xác nhận chủ tâm dã man này trong một bài nói chuyện đúng vào ngày rút quân của Trung Quốc, nguyên văn: “Mười một ngày này trên đường trở về đã quét dọn một số hang, có một số vật tư giấu ở hang này hang nọ, một số thôn trang, cũng quét dọn mấy ngàn người, trên vạn người.”
Ngày này, ba mươi bốn năm sau, dường như không còn chút vết tích gì về cuộc chiến đó trên quê hương Việt Nam.
Đối với mỗi người Việt Nam yêu nước câu hỏi lớn và đau đớn nhất trong ngày này là - đây là một sự lãng quên vô tình hay phản bội?
Bởi toàn bộ hệ thống truyền thông, báo chí chính thống của nhà nước không hề nêu lên một chữ dù chỉ để nhắc nhớ như đã từng nhắc nhớ về những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ? (Báo Thanh Niên số 17/2/2013 có bài Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979, bài duy nhất trên phương tiện truyền thông Việt Nam trực tiếp nhắc đến cuộc chiến chống quân Trung Quốc - BTV)
Trong hàng loạt những hoạt động tưởng nhớ, đền ơn những người có công với đất nước người ta không hề nghe đến những người đã hy sinh cho Tổ quốc trong trận chiến với “quân Trung Quốc xâm lược” vào tháng 2 năm 1979.
Trên các tỉnh phía Bắc, nơi xảy ra cuộc chiến, những tấm bia nào có ghi dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược” đều bị xóa sạch.
Cũng có những nghĩa trang chôn cất những người đã hy sinh trong trận chiến nhưng lại đìu hiu đến ngậm ngùi.
Nghĩa trang Duyên Hải, Lào Cai là một điển hình chua xót. Cũng từ cái chủ nghĩa ấy các anh đã cầm súng và hy sinh, và sự hy sinh của các anh ngày hôm nay đã biến vào hư không, âm thầm như nhũng cái chết vô danh. Những nấm mộ này vẫn đang nằm trong lãng quên của nhiều người, ngoại trừ nỗi buồn đau của người thân các anh.
Biên giới Việt Nam-Trung Quốc

Lãng quên hay phản bội?

Đáng lẽ ngày này phải có lễ kỷ niệm, bởi vì đó là ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam, tàn phá biên giới giết hại nhân dân Việt Nam.
Đó là một dấu mốc mà nhân dân Việt Nam đời đời khắc cốt, ghi xương.
Đáng ra phải có lễ kỷ niệm, nhưng vì sao vậy?
Đó là do sức ép của nhà cầm quyền Trung Cộng đối với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, Trung Quốc vừa ăn cướp vừa bịt miệng nạn nhân với những mỹ từ nào là “16 chữ vàng” nào là “4 tốt”.
Liệu pháp “16 chữ vàng” và “4 tốt” xuất hiện trong bối cảnh nào mà đã xóa sạch mọi vết tích của trận chiến ngày 17/2/1979? Thậm chí nó còn muốn hủy diệt sức đề kháng trước ngoại xâm của dân tộc Việt Nam?
Vì sao hình ảnh “16 chữ vàng” và “4 tốt” đã thay chỗ cho những khuôn mặt đau thương, những thân hình tàn phế cùng những hy sinh không đếm được của hàng chục vạn chiến sĩ, đồng bào trong cuộc chiến 17 tháng 2 năm 1979>
Hàng ngàn năm sống bên cạnh Trung Quốc đã cho người Việt Nam quá nhiều kinh nghiệm và bài học.
Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay vì luôn luôn đặt quyền lợi của Đảng lên trên quyền lợi của dân tộc nên mới nhận kẻ thù truyền kiếp của dân tộc làm bạn, rồi bây giờ cũng vì quyền lợi riêng, nên cúi đầu cam tâm thần phục Bắc Kinh, và ép buộc nhân dân phải đớn hèn theo họ!
Cuộc chiến biên giới tháng 2 năm 1979 chống quân Trung Quốc xâm lược rõ ràng là một cuộc chiến cố tình bị lãng quên. Tôi cho đó là một sự phản bội của Đảng Cộng sản Việt Nam!
Bài phản ánh quan điểm và cách hành văn của người viết, nhà báo hiện sống ở Bratislava, Slovakia.
 Số thương vong trong cuộc chiến 1979
 
Biên giới Việt Nam
Ngày 17-2-1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam
Tư liệu của Trung Quốc nói rằng từ đầu, Bắc Kinh hạn chế mục tiêu và cách tiến hành cuộc chiến để không vượt quá một cuộc xung đột biên giới với Việt Nam.
Kế hoạch của Trung Quốc gồm ba giai đoạn.
Giai đoạn đầu từ 17 đến 25-2, khi quân Trung Quốc, theo kế hoạch, sẽ phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam và cướp lấy Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn.

Giai đoạn hai là tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở mạn tây bắc, từ 26-2 đến 5-3.
Giai đoạn cuối là bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút về vào ngày 16-3.
Diễn biến cuộc chiến
Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12-2005, cuộc tấn công có vẻ đã làm Việt Nam bị bất ngờ.
Mặc dù có căng thẳng trong nhiều tháng, nhưng dường như các nhà lãnh đạo Việt Nam không tin rằng một "nước anh em" sẽ lại thật sự xâm lấn.
Khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới, thủ tướng Phạm Văn Đồng và tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đang ở Phnom Penh.
Trong lúc gửi điện khẩn nhờ Moscow giúp đỡ, phản ứng ban đầu của Việt Nam là "chống đỡ bằng mọi biện pháp, cốt sao làm chậm bước tiến quân của Trung Quốc."
Đến ngày 20-2, các cố vấn Liên Xô kết luận quân Việt Nam thiếu sự điều phối và rằng các phòng thủ du kích sẽ không thể ngăn được quân đối phương.
Trung Quốc và Việt Nam đánh giá khác nhau về cuộc chiến 1979
Tuy nhiên, mặc dù có ưu thế lúc đầu, nhưng địa hình hiểm trở và sự chống cự quyết liệt của quân chính quy và dân quân Việt Nam khiến quân Trung Quốc lâm vào tình trạng khó khăn.
Tác giả Xiaoming Zhang phân tích một trong những vấn đề nằm trong cách nghĩ truyền thống của các tướng lĩnh Trung Quốc.
Nhiều lần, quân tiền phương kêu gọi không quân hỗ trợ, nhưng Bộ tổng tham mưu Trung Quốc không chịu mà lại yêu cầu hãy dựa vào pháo binh.
Các tướng lĩnh Trung Quốc thuộc về một truyền thống quen với cuộc chiến pháo binh và sử dụng biển người, và hạ thấp vai trò của không quân. Đây là một trong những lý do khiến số binh sĩ chết nơi trận địa lên rất cao.
Cuộc xâm lấn của Trung Quốc cũng phụ thuộc vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn.
Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở mạn phía đông và nam.
Đến ngày 23-2, Trung Quốc chiếm được Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ.
Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Quân đội Việt Nam phân nhỏ thành nhiều đơn vị, và phản công theo lối du kích.
Bắc Kinh ngày càng trở nên lo ngại về tiến trình cuộc chiến, và hối thúc tư lệnh Quảng Tây mở cuộc tấn công vào Lạng Sơn càng sớm càng tốt.
Trận đánh Lạng Sơn bắt đầu ngày 27-2, và khu vực mạn bắc của thành phố này bị Trung Quốc chiếm được vào ngày 2-3. Đây cũng là ngày mà theo kế hoạch Trung Quốc sẽ dừng hoạt động quân sự.
Vì bộ máy tuyên truyền của Hà Nội không thừa nhận thất bại ở Lạng Sơn, Xu quyết định tiếp tục tấn công, với mục đích chiếm toàn bộ Lạng Sơn rồi hướng về Nam, tạo thành vị trí đe dọa Hà Nội.
Mặc dù Bắc Kinh đồng ý với quyết định của Xu, nhưng họ loan báo rút quân vào hôm 5-3, ngay sau khi quân Trung Quốc chiếm phần phía nam của Lạng Sơn và tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu mà họ đặt ra.
Số thương vong
Cuộc chiến năm 1979 là hoạt động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ chiến tranh Triều Tiên.
Theo số liệu của nước này, họ đã huy động chín đội quân chính quy cùng các đơn vị địa phương quân, tổng cộng tương đương 300.000 quân.
Cho đến nay, Việt Nam công bố không nhiều các tư liệu liên quan cuộc chiến, và các con số về thương vong cũng khác nhau ở nhiều cuốn sách.
Phía Trung Quốc có tiết lộ một phần nào. Ban đầu Bắc Kinh nói 20.000 lính Trung Quốc đã bị chết hoặc bị thương.
Một số nguồn học thuật hiện thời ước tính có thể có đến 25.000 lính trung Quốc bị chết và 37.000 bị thương.
Những nguồn tài liệu gần đây hơn của chính Trung Quốc thì nói 6900 lính nước này đã chết và 15.000 bị thương.
Dù thế nào, số thương vong của Trung Quốc trong một cuộc chiến ngắn ngày vẫn là cao, thể hiện một trong những truyền thống quân sự của nước này: sẵn sàng chịu tổn thất nhân mạng khi nó được xem là cần thiết.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng miễn là họ tin rằng họ chiếm ưu thế trong tình hình chiến lược chung.

Vì sao Đặng Tiểu Bình đánh VN năm 1979?

Họp mặt Đặng - Carter 31/1/1979
Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình thăm Hoa Kỳ và họp báo với Tổng thống Jimmy Carter ngày 31/1/1979
Nhắc lại Chiến tranh Trung - Việt 32 năm về trước, một số nguồn sử liệu gần đây nhấn mạnh hơn đến vai trò riêng của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình trong cuộc tấn công Trung Quốc gọi là 'phản kích tự vệ'.
Trong phần gửi cho BBC hôm 16/2 vừa qua, ông Dương Danh Dy, nhà ngoại giao Việt Nam từng làm việc tại Trung Quốc, có nói đến cách nhìn cuộc chiến từ hai phía.
Tuy nhiên, văn bản này còn cho biết thêm về vai trò quan trọng của ông Đặng Tiểu Bình trong quyết định đánh Việt Nam, trong bối cảnh quốc tế có cả quan hệ với Washington và Moscow.
Nay BBC Tiếng Việt khai thác thêm các góc độ trong tài liệu này và so sánh với một số đánh giá đã nêu từ trước về cuộc chiến 1979, sự kiện vẫn chưa được thảo luận công khai ở cả Việt Nam và Trung Quốc.
'Hoa Kỳ không tán thành'
Đặng Tiểu Bình được trích lời nói rằng ông đã tuyên bố dạy cho Việt Nam 'một bài học' trước đó, khi thăm Hoa Kỳ, mở đầu chiến lược kiên kết với chính quyền Carter, nhằm chống lại Moscow và các đồng minh, trong đó có Hà Nội.
Ông Đặng nói với các tướng lĩnh Quân Giải phóng rằng Hoa Kỳ không tán thành việc Bắc Kinh trừng phạt Hà Nội nhưng cũng giúp một ít tin tình báo.
Cuộc đưa quân sang Campuchia của Việt Nam khi đó cũng là chủ đề đáng được nhắc lại vì phía TQ cho rằng cuộc chiến 1979 chủ yếu để 'dạy cho VN một bài học' vì 'xâm lăng Campuchia', nước khi đó là đồng minh, và hiện nay cũng đang gần lại với Trung Quốc trong chiến lược Đông Nam Á của Bắc Kinh.
Trong bản dịch của học giả Dương Danh Dy nhân kỷ niệm 32 năm Chiến tranh Biên giới, ông Đặng tiết lộ:
"Khi thăm Mỹ tôi nói cho Việt Nam bài học, nước Mỹ không tán thành. Chúng ta sử dụng hành động tương đối lớn sợ dẫn tới phản ứng lớn của Liên Xô, nước Mỹ một mặt phản đối chúng ta trừng phạt, nhưng mặt khác cũng thông báo cho chúng ta chút tình báo, nói quân đội Liên Xô về căn bản không động đậy, trên mấy ngàn cấy số biên giới( Trung Xô) chỉ có 54 sư đoàn không đầy đủ quân số,"
Có vẻ như chi tiết này khiến TQ tiến hành cuộc chiến họ gọi là 'Đối Việt tự vệ phản kích chiến' nhanh chóng và sau khi tàn phá sáu tỉnh biên giới của VN thì rút quân về:
"Ba phần tư binh lực Liên Xô bố trí tại châu Âu, nên muốn tấn công Trung Quốc qui mô lớn thì phải chuyển dời trọng điểm chiến lược, ít nhất phải điều 1 triệu quân từ châu Âu về, việc này không kịp vì thời gian hành động của chúng ta không dài."
Những người lính Trung Quốc hành quân trong cuộc chiến
Trong bài nói chuyện đó, ông Đặng Tiểu Bình cũng gọi Việt Nam là 'Cuba Phương Đông', hàm ý nước này là 'tay sai Liên Xô', và gọi các lãnh đạo Hà Nội là 'điên cuồng'.
Với giới trí thức bên ngoài, kể cả ở Phương Tây, cuộc chiến ngắn ngày nhưng dữ dội là một cột mốc quan trọng để đánh giá Trung Quốc trong quá trình tìm con đường mới, thoát khỏi thời kỳ tự cô lập của Mao Trạch Đông, và xác định vị trí trên trường quốc tế.
Vai trò quyết định
Trong một nghiên cứu hồi 2010, tác giả Trương Tiểu Minh từ U.S. Air War College, Hoa Kỳ cho rằng ông Đặng có vai trò cá nhân nổi bật trong quyết định đánh Việt Nam.
Theo ông, nhìn từ quan điểm của ban lãnh đạo TQ khi đó thì có ba yếu tố khiến bối cảnh xảy ra cuộc chiến trở nên khả thi.
Đó là quan hệ đặc biệt giữa Moscow và Hà Nội sau hiệp định 1978; vai trò thống trị của Việt Nam ở Đông Dương và quan hệ xấu đi nghiêm trọng giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Còn về nội bộ, theo TS Trương, chính việc thăng chức của ông Đặng Tiểu Bình, từ vị trí phó thủ tướng khi Mao chết năm 1976, lên chức vụ cao nhất, nắm Quân uỷ Trung ương tại Hội nghị Trung ương 3, Ban Chấp hành Trung ương khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là yếu tố quyết định cho việc đánh VN.
Trong bài dịch của học giả Dương Danh Dy, ông Đặng tỏ ra có quan điểm thù ghét Việt Nam một cách khác thường.
Trong phát biểu ngày 16/3/1979, ông được trích lời nói:
"Đồng thời khi kinh doanh chuyện chống đối Trung Quốc, Việt Nam đã đánh nhau nhiều năm, ngay lúc chúng ta tăng cưòng viện trợ cho chúng, có công sự đã xây bẩy năm, có cái đã được ba năm, chỗ nào cũng thấy công sự, tích trữ rất nhiều vật tư, rất nhiều vật tư là do chúng ta viện trợ, gạo, đạn, vũ khí, lần này lấy về một loạt, Việt Nam cậy có hiệp ước Xô Việt mới dám như thế."
Một số nhà quan sát đã từng cho rằng ông Đặng phụ trách chuyện viện trợ của TQ cho Hà Nội thời chiến tranh Mỹ - Việt nên cảm thấy bị 'phản bội' bởi thái độ quay sang Liên Xô của nước Việt Nam cộng sản sau chiến tranh.
Vì thế, quyết định trừng phạt của ông được nói rõ:
"Nó cũng nghĩ là cậy hiệp ước này kéo Liên Xô xuống nuớc, cũng cậy có hiệp ước này cho rằng chúng ta không dám áp dụng trừng phạt qui mô tưong đối lớn. Ngay trước khi chúng ta ra quân mấy ngày nó còn dự đoán rằng chúng ta chỉ có hành động phạm vi nhỏ hai sư đoàn. Chúng ta hạ quyết tâm này đúng là đã tỉnh táo đánh giá phản ứng của phía bắc lớn đến đâu."
Các nguồn tin của phía Việt Nam, chẳng hạn như lời kể của cựu đại tá Bùi Tín, cho rằng mâu thuẫn giữa ông Lê Duẩn và Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình lên cao trước khi xảy ra cuộc chiến năm 1979.
Một số giới tại Việt Nam tin rằng ban lãnh đạo Bắc Kinh không thực sự muốn hai miền Nam Bắc VN thống nhất dưới sự lãnh đạo của Hà Nội.
Ngoài ra, trong dư luận Việt Nam có niềm tin rằng Trung Quốc chỉ lợi dụng tình thế để kiếm lợi về địa chính trị và cả lãnh thổ, với bằng chứng là vụ đưa quân chiếm Hoàng Sa năm 1974 từ tay Việt Nam Cộng Hòa.
Cố vấn an ninh Brzezinski đưa ra chiến lược lôi kéo Trung Quốc
Hệ quả lâu dài
Về vai trò của Mỹ, các bình luận cho tới nay phần nhiều đồng ý rằng chiến lược lôi kéo Trung Quốc để bao vây Liên Xô của cố vấn an ninh Zbigniew Brzezinski là yếu tố cơ bản để Washington liên kết với Bắc Kinh trong vấn đề Đông Dương.
Điều này cũng được chính giáo sư Brzezinski, người gần đây lại một lần nữa kêu gọi chính quyền Obama xây đắp trở lại quan hệ với Trung Quốc, xác nhận trong nhiều bài viết và sách của ông.
Đổi lại, Trung Quốc được mở lối vào lại với Phương Tây để hiện đại hóa nền kinh tế nhờ các thí điểm về đầu tư tư bản và công nghệ.
Về phía Hoa Kỳ, chiến lược Brzezinski tạo liên minh không tên với Trung Quốc khiến Washington phá vỡ khối xã hội chủ nghĩa châu Á mà không phải tham chiến.
Chiến tranh Biên giới 1979 và cuộc chiến Việt Nam - Campuchia đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế này, xung đột quân sự nổ ra giữa các nước cùng ý thức hệ.
Kế hoạch Bốn Hiện Đại hóa của Trung Quốc cuối thập niên 1970, đầu 1980 có cả phần về quân sự.
Và dù thiệt hại nặng trong cuộc chiến biên giới, Quân Giải phóng Trung Quốc đã rút kinh nghiệm trong việc tổ chức và tiến đến hiện đại hóa.
Việc tăng cường quân bị theo mô hình dùng không quân, hải quân và tên lửa nhiều hơn bộ binh, lực lượng chịu nhiều thiệt hại năm 1979, khiến Trung Quốc ngày nay trở thành một cường quốc khu vực với tham vọng toàn cầu.
Còn với Việt Nam, ngoài thiệt hại nghiêm trọng về vật chất ở các tỉnh biên giới phía Bắc, xung đột vẫn kéo dài, gây chảy máu nền kinh tế.
Cuộc chiến và việc đóng quân lại Campuchia cũng khiến Hà Nội bị cô lập nhiều năm về chính trị và kinh tế.
10 năm sau, cùng thời gian cách mạng dân chủ rung chuyển Đông Âu, ban lãnh đạo Việt Nam đã lại ngả sang Bắc Kinh qua cuộc gặp Thành Đô, tạo ra một loạt hệ luỵ mới cho quan hệ song phương tới ngày nay.
Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển dần dần được giải quyết nhưng hòa bình qua đường biên giới, giao thương tăng nhanh với phần lợi nghiêng về Trung Quốc, vẫn chưa thực sự đem lại hòa giải giữa hai nước.
Việc các trang mạng cá nhân và blog ở Việt Nam nhắc lại nhiều về cuộc chiến 1979 cho thấy giới trí thức e ngại Trung Quốc vẫn muốn lên tiếng, trong khi truyền thông chính thức không đả động gì đến chủ đề lịch sử này.

 Tiết lộ mới về cuộc chiến 1979
 
Biên giới Việt Nam
Ngày 17-2-1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam
Đúng 27 năm trước đây, ngày 17-2-1979, Trung Quốc đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam sau nhiều tuần căng thẳng.
Trong nhiều năm, nguồn tư liệu của phía Trung Quốc về cuộc chiến vẫn thuộc vào hàng danh sách mật, và thông tin chính thức chỉ có lẻ tẻ.
Tuy vậy, gần đây nhiều tư liệu lưu hành nội bộ về cuộc chiến năm 1979 đã được công bố, cộng thêm một số hồi ký của các sĩ quan cao cấp.

Một trong những câu hỏi chưa có lời giải đáp chi tiết là khi nào và làm thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định có hành động quân sự chống Việt Nam.
Những tư liệu mới
Trong hồi ký của Zhou Deli, tham mưu trưởng của Quân khu Quảng Châu, nhớ lại rằng vào tháng Chín 1978, một cuộc họp về "cách giải quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt Nam chiếm đóng" đã diễn ra tại văn phòng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Trung Quốc.
Sự tập trung ban đầu là nhắm vào cuộc xung đột biên giới, và đề xuất đầu tiên muốn có một cuộc tấn công nhỏ vào một trung đoàn Việt Nam ở Trùng Khánh, ráp gianh Quảng Tây.
Quân đội Việt Nam ở Campuchia
Tư liệu mới đặt giả thiết Trung Quốc ra quyết định trước khi Việt Nam tấn công Campuchia
Nhưng theo hồi kí của Zhou Deli, sau khi nhận được tin tình báo cho biết Việt Nam sẽ tấn công Campuchia, đa số người dự họp cho rằng một cuộc tấn công cần có tác động lớn đến Hà Nội và tình hình Đông Nam Á.
Họ đề nghị tấn công vào một đơn vị quân chính quy Việt Nam ở một khu vực địa lý rộng hơn.
Mặc dù cuộc họp kết thúc mà không đưa ra quyết định nào, nhưng nó tạo tiền đề cho kế hoạch chiến tranh sau đó.
Tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan, Malaysia và Singapore. Trong chuyến đi, ông Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia.
Ngày 7-12, Ủy ban quân ủy trung ương có cuộc họp và quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở vùng biên giới phía nam của Trung Quốc.
Ngày hôm sau, họ ra lệnh cho các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch và chuẩn bị quân đầy đủ trước ngày 10-1-1979.
Chỉ thị nói rằng cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi 50 cây số từ biên giới và kéo dài hai tuần.
Trong một nghiên cứu có thể nói là mới nhất về cuộc chiến Việt Trung 1979, vừa ra mắt tháng 12 năm ngoái, tác giả Xiaoming Zhang bình luận rằng thời điểm ra lệnh này chứng tỏ Trung Quốc phản ứng trước cuộc tấn công sắp xảy ra của Việt Nam vào Campuchia. Nhưng việc mở chiến dịch quân sự cả trước khi quân Việt Nam vượt qua sông Mêkông cũng cho thấy phản ứng của Bắc Kinh xuất phát từ nhiều năm bực bội vì hành vi của Việt Nam mà họ cho rằng đã "vô ơn" trước sự giúp đỡ trước đây.
Quyết định cụ thể
Tư liệu mới cho biết trong một cuộc họp vào ngày cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị một cuộc chiến chống Việt Nam.
Tại cuộc họp này, ông Đặng bổ nhiệm Xu Shiyou lãnh đạo quân từ Quảng Tây, Yang Dezhi lãnh đạo quân từ Vân Nam. Quyết định này đã bỏ qua Wang Bicheng, lãnh đạo Quân khu Côn Minh.
Không có một sự lãnh đạo tập trung, hai quân khu này sẽ tác chiến độc lập, gần như không có sự hợp tác.
Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc xâm lấn phải nhanh, và toàn bộ quân phải rút về sau khi hoàn tất mục tiêu chiến thuật.
Ngay sau cuộc họp, Đặng Tiểu Bình gửi hai sĩ quan cao cấp đến Vân Nam và Quảng Tây kiểm tra tình hình.
Lo lắng trước sự trễ nải của quân lính, người kiểm tra ra đề nghị hoãn cuộc tấn công thêm một tháng.
Người kiểm tra này, Zhang Zhen, viết trong hồi kí năm 2003 rằng cấp trên đồng ý hoãn cuộc tấn công đến giữa tháng Hai 1979.
Ngày 23-1, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc họp và quyết định quân đội phải sẵn sàng hành động trước ngày 15-2.
Hai ngày sau khi ông Đặng trở về sau chuyến thăm Mỹ và Nhật, hôm 11-2-1979, ông ra quyết định sẽ tấn công Việt Nam vào ngày 17-2.
Lệnh này được gửi đến Quảng Tây và Vân Nam.
Nhiều nhà quan sát trước đây đã phân tích vì sao Trung Quốc chọn thời điểm này.
Có vẻ nó liên quan đến yếu tố thời tiết: sẽ khó khăn nếu đưa quân tác chiến vào mùa mưa, thường bắt đầu từ tháng Tư, và cũng không ổn nếu tấn công quá sớm khi quân Liên Xô có thể vượt dòng sông băng dọc biên giới Xô - Trung.

 Trung Quốc rút bài học sau 1979
 
Biên giới Việt Nam
Ngày 17-2-1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam
Sau khi cuộc chiến ngắn ngày kết thúc, tất cả các đơn vị Trung Quốc tham chiến phải viết tường trình về kinh nghiệm chiến trường.
Trong vấn đề tổng kết cuộc chiến, Trung Quốc ở trong tình thế khó xử.
Một mặt, họ tuyên bố mình đã chiến thắng, nhưng đồng thời cũng phải thừa nhận những tổn thất mà quân Trung Quốc đã hứng chịu.


Ban lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy cần phải có sự đánh giá khách quan tình hình. Tuy nhiên, tinh thần ái quốc và thành kiến văn hóa cũng khiến họ không đưa ra được những kết luận hoàn toàn khách quan.
Trong bài viết mới nhất về chủ đề này đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12-2005, tác giả Xiaoming Zhang cho biết quân đội Trung Quốc đã rút ra sáu bài học từ cuộc chiến 1979.
Thứ nhất, họ kết luận mọi chiến lược và quyết định quân sự đúng đắn phụ thuộc việc nắm bắt mọi khía cạnh của tình hình.
Cuộc chiến biên giới 1979 cho thấy Trung Quốc không mấy chú ý đến chiến thuật và học thuyết quân sự của Việt Nam trước khi tấn công. Vì thế, họ đánh giá thấp khả năng của đối phương.
Mặc dù chê Việt Nam thiếu khả năng tấn công và phòng thủ, nhưng văn bản chính thức của Trung Quốc cũng thừa nhận chiến thuật du kích và dân quân Việt Nam đã khiến Trung Quốc bị bất ngờ.
Bài học thứ hai là phải thu thập đầy đủ thông tin về tình báo. Sự đánh giá địa hình địa vật của Trung Quốc thường dựa theo các bản đồ đã quá cũ, trong khi khả năng dò thám trên chiến trường lại cũng hạn chế.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng tính nhầm số lượng các dân quân Việt Nam. Ban đầu, Bắc Kinh nghĩ tỉ lệ quân đội tham chiến giữa hai bên sẽ là 8-1.
Nhưng kết quả, riêng tại Cao Bằng có tới 40.000 - 50.000 dân quân Việt Nam, khiến tỉ lệ giảm chỉ còn 2-1.
Nâng cao khả năng
Bài học thứ ba Trung Quốc rút ra từ cuộc chiến liên quan đến khả năng tác chiến.
Đây là lần đầu tiên quân đội Trung Quốc thực hiện tác chiến với sự kết hợp của xe tăng, pháo binh, cộng với không quân và thủy quân.
Trong mấy năm gần đây, Trung Quốc đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội
Nhưng sự lạc hậu trong học thuyết và chiến thuật khiến quân đội không có sự phối hợp cần thiết.
Thành kiến đối với khả năng của không quân khiến binh chủng này không có đóng góp gì vào cuộc chiến ngắn ngày. Trên mặt đất, quân đội cũng chứng tỏ khả năng hợp tác kém giữa bộ binh, xe tăng và pháo binh.
Kinh nghiệm năm 1979 dạy cho Trung Quốc những bài học về kỹ năng điều phối và hợp tác giữa các binh chủng.
Bài học thứ tư là vấn đề về chỉ huy và kiểm soát.
Quan hệ cá nhân giữa các sĩ quan và quân đoàn vẫn đóng vai trò lớn hơn các quan hệ dựa trên những định chế.
Vì thế sau này lãnh đạo Quân khu Quảng Châu thừa nhận họ không thoải mái khi chỉ huy số quân được chuyển từ Vũ Hán và Thành Đô trong chiến dịch.
Bài học thứ năm là việc chứng tỏ Trung Quốc phải cải thiện hệ thống cung cấp hậu cần để hỗ trợ cho một chiến dịch xa nhà.
Vì thiếu kho bãi và thiết bị vận chuyển, hai Quân khu Quảng Châu và Côn Minh phải tự lập ra một hệ thống hậu cần mà không bao giờ hoạt động thật hiệu quả.
Khi quân đội tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, các sĩ quan hậu cần cũng thấy rằng phải nhờ thêm viện quân để bảo vệ tuyến đường liên lạc.
Bài học cuối cùng liên quan tầm quan trọng của việc tuyên truyền và vận động nhân dân hỗ trợ cuộc chiến.
Kinh nghiệm năm 1979 cho thấy một số lượng khổng lồ lính chính quy Trung Quốc gần như không thể tác chiến ở nước ngoài nếu không có sự ủng hộ của thường dân trong nước.
Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã cổ vũ tinh thần yêu nước và lòng tự hào trong nhân dân. Kết quả, chỉ riêng ở Quảng Tây, hơn 215.000 thường dân được huy động để khuân vác, bảo vệ hàng hóa chở ra trận địa.
Dĩ nhiên, ngày hôm nay không ai nghĩ rằng quân đội Trung Quốc sẽ lặp lại những gì đã làm trong cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam.
Tuy vậy, một số điểm từ cuộc chiến này vẫn có thể có ích để nhìn nhận và đánh giá những chiến lược của quân đội Trung Quốc.
Một kinh nghiệm rút ra là các lãnh đạo Trung Quốc tính toán rất kỹ về việc khi nào cần dùng sức mạnh quân sự, nhưng họ không ngần ngại mở cuộc chiến nếu họ nghĩ rằng quyền lợi quốc gia bị đụng chạm.

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Bi kịch gia đình một danh gia vọng tộc đất Cảng

Năm nay đã gần 90 tuổi, vị cựu đại tá - nguyên Giám đốc Công an Hải Phòng Dương Khắc Thụ không còn minh mẫn để thường xuyên theo dõi thông tin trên báo chí. Gia đình cũng tìm mọi cách giấu thông tin đến với ông Thụ bởi ông sẽ sốc nặng khi biết chỉ trong một thời gian ngắn, lần lượt các con trai Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng bị bắt; con rể Nguyễn Bình Kiên bị khai trừ đảng và hàng loạt những người thân tín như Vũ Tiến Sơn, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Trọng Ánh đều vướng vào vòng lao lý.

“Danh gia vọng tộc”

Thời điểm cách đây hơn 1 năm, gia đình đại tá Dương Khắc Thụ được coi là một trong những “danh gia vọng tộc” bậc nhất đất cảng. Đại tá Dương Khắc Thụ sinh ra trong một gia đình trí thức quê tỉnh Hải Dương. Ông từng giữ chức vụ đại tá - Giám đốc CA TP.Hải Phòng giai đoạn giữa thập kỷ 80. Đại tá Dương Khắc Thụ có 5 người con, ngoài con trai cả Dương Chí Dũng không theo nghiệp bố và một người con đã chết trong một vụ tai nạn giao thông thì 3 người con còn lại cùng dâu, rể đều làm trong lực lượng CA. Người được gia đình ông Thụ kỳ vọng nhất chính là đại tá Dương Tự Trọng.


Phó giám đốc CA TP.Hải Phòng Dương Tự Trọng hỏi cung Mai Đức Vượng - nhân vật cộm cán đất cảng bị bắt năm 2011.

Đối với người Hải Phòng, cái tên Dương Tự Trọng không hề xa lạ. Dù hiện nay người này đã vướng vào vòng lao lý nhưng nhiều cán bộ, chiến sĩ CA TP.Hải Phòng vẫn cho rằng đây là một cán bộ năng lực, từng là nỗi kinh hoàng của tội phạm đất cảng. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa, ông Trọng về công tác tại CA TP.Hải Phòng, từ phó trưởng CA phường, Trưởng CA Q.Lê Chân, Trưởng phòng CSĐT tội phạm hình sự (PC45) rồi Phó GĐ, Thủ trưởng cơ quan CSĐT (CA TP.Hải Phòng).

Ông Trọng có nhiều tố chất nổi bật để trở thành lãnh đạo những đơn vị chiến đấu tinh nhuệ của CA TP.Hải Phòng. Từ thời ông còn là Đội trưởng Đội H88 (đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang) tới khi ông là Trưởng phòng CSĐT tội phạm hình sự rồi Phó GĐ CATP đã để lại nhiều dấu ấn cá nhân đậm nét trong các chuyên án lớn triệt phá những ổ nhóm tội phạm cộm cán đất cảng như Cu Nên, Dung Hà, Lâm Già, Tộ Tích...

Nhiều người biết rằng, sự nghiệp của ông Trọng đã dừng lại ngay sau khi Dương Chí Dũng bỏ trốn, một thời gian sau, đại tá Dương Tự Trọng “được” điều lên làm Cục phó Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (Bộ CA). Tới ngày 22.2 vừa qua, ông Trọng bị bắt với tội danh tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài.

Trước ông Dương Tự Trọng, cuối tháng 1.2013 một người khác trong gia đình này là đại tá Nguyễn Bình Kiên - Phó GĐ CA TP.Hải Phòng - đã bị Thành ủy Hải Phòng khai trừ khỏi Đảng. Uỷ ban Kiểm tra Thành ủy Hải Phòng làm rõ, trong thời gian làm Phó Cục trưởng Cục An ninh tài chính, tiền tệ, đầu tư (Bộ CA) đại tá Kiên đã vi phạm nghiêm trọng quy định công tác nghiệp vụ của ngành; xâm phạm đến quyền tự do cá nhân của công dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín ngành CA; vi phạm tư cách đảng viên; vi phạm đến 19 điều đảng viên không được làm và những điều cán bộ, chiến sĩ CA không được làm.

Kết cục của tình anh em mang màu sắc... giang hồ

Trước thời điểm Vinalines vỡ lở, trong gia đình đại tá Dương Khắc Thụ thì người con trai cả Dương Chí Dũng được cho là thành công nhất trong con đường công danh với chức vụ Chủ tịch HĐQT Tổng Cty Hàng hải VN (Vinalines) rồi Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả kinh doanh của Vinalines trong thời gian Dương Chí Dũng chèo lái là vô cùng thảm hại. Trong vụ án cố ý làm trái xảy ra tại Vinalines, Cơ quan CSĐT (Bộ CA) tống đạt quyết định khởi tố bị can đối với Dương Chí Dũng. Thay vì chịu trách nhiệm, Dương Chí Dũng lại bỏ trốn.

Trong sự nghiệp của đại tá Dương Tự Trọng, ông này đã từng trực tiếp vận động được rất nhiều người thân của tội phạm động viên chúng ra đầu thú. Tuy vậy, khi chính người thân của mình phạm tội thì ông Trọng lại tổ chức cho anh trai bỏ trốn. Vốn nhiều năm công tác trong ngành CA, ông Trọng không khó tìm người giúp Dương Chí Dũng bỏ trốn. Kẻ được “chấm” là Trần Văn Dũng (tức Dũng “Bắc Cạn”, 45 tuổi), một đối tượng giang hồ cộm cán đất cảng, liên quan đến hầu hết các trùm xã hội đen như Năm Cam, Dung “Hà”...

Việc tổ chức cho Dương Chí Dũng bỏ trốn cần phải có những người đặc biệt tin cẩn. Lúc này những người như thượng tá Vũ Tiến Sơn - Phó trưởng phòng CSĐT (PC45), trung tá Hoàng Văn Thắng - đội trưởng đội 3 Phòng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường và thiếu úy Nguyễn Trọng Ánh - cán bộ Phòng CSĐT (PC45) CA TP.Hải Phòng đều được “nhờ”.

Nhiều người trong lực lượng CA TP.Hải Phòng đều biết 3 người trên là những người thân cận của đại tá Dương Tự Trọng. Đặc biệt, thượng tá Vũ Tiến Sơn (biệt danh Sơn “tép”). Khi “ông anh” có việc nhờ, họ không ngần ngại ra tay giúp đỡ theo kiểu tình nghĩa... giang hồ, dù biết sẽ gánh những hậu quả nặng nề nếu bị phát hiện. Kết cục là Dương Chí Dũng bị bắt sau hơn 3 tháng lẩn trốn, Cơ quan ANĐT (Bộ CA) đã phanh phui ra cả đường dây giúp Dương Chí Dũng bỏ trốn, bắt gần 10 người trong ngành CA trong đó người có chức vụ cao nhất là đại tá Dương Tự Trọng. Một gia đình danh giá bậc nhất đất cảng lâm vào cảnh tan nát chỉ vì một quyết định sai lầm: Giúp Dương Chí Dũng bỏ trốn.
Diễn biến vụ án
- Tháng 1-2012, cơ quan CSĐT (C48) đã xác minh làm rõ dấu hiệu sai phạm trong quá trình sửa chữa ụ nổi; xác định 4 đối tượng Trần Hải Sơn - Tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines, Trần Văn Quang - Trưởng phòng Kế hoạch Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines, Trần Bá Hùng - cán bộ Hyundai Vinashin, Phạm Bá Giáp - Giám đốc Công ty Nguyên Ân lập 2 bộ hợp đồng, chứng từ quyết toán khống chiếm đoạt 2,9 tỉ đồng (theo kết luận của giám định viên Bộ Công thương).
- Ngày 1-2-2012, C48 quyết định khởi tố vụ án tham ô tài sản, khởi tố bị can, bắt tạm giam 4 đối tượng trên.
- Ngày 17-5-2012, C48 đã ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án; đồng thời ra quyết định khởi tố bị can về tội “cố ý làm trái...”, bắt tạm giam ông Dũng, lúc bấy giờ là Cục trưởng Cục Hàng hải; ông Mai Văn Phúc - nguyên Tổng giám đốc Vinalines, hiện là Vụ phó Vụ Vận tải; ông Trần Hữu Chiều - Phó tổng giám đốc kiêm Trưởng ban QLDA Nhà máy sửa chữa tàu biển Vinalines phía nam. Chiều cùng ngày, C48 xác định ông Dũng đã bỏ trốn.
- Ngày 18-5, C48 ra quyết định truy nã đặc biệt trên toàn quốc đối với bị can Dương Chí Dũng và phối hợp với Interpol truy nã quốc tế bị can này.
- Tháng 9-2012, Cơ quan CSĐT bắt giữ được ông Dũng.
- Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an cũng vào cuộc điều tra vụ việc ông Dũng bỏ trốn và bước đầu xác định một trong những nghi phạm chủ chốt tổ chức cho ông Dũng trốn đi nước ngoài là Trần Văn Dũng, một đối tượng giang hồ cộm cán ở Hải Phòng nên đã khởi tố vụ án “Trần Văn Dũng cùng đồng bọn tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”.
- Từ cuối năm 2012 đến nay, Cơ quan An ninh điều tra đã bắt giữ 6 người có liên quan đến vụ án này.

Dương Chí Dũng sẽ phải đối mặt với mức án nào? 

cuộc trao đổi với Luật sư Hoàng Cao Sang- Trường văn phòng luật sư Hoàng Việt Luật về vấn đề này.

Thưa luật sư, dư luận đang đặt câu hỏi tội của Dương Chí Dũng sẽ có mức hình phạt như thế nào?
- Căn cứ vào thông tin công bố của phía Công An và báo chí đưa tin, Dương Chí Dũng bị truy tố về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Theo quy định tại điều 165 Bộ Luật hình sự (BLHS) thì mức hình phạt cao nhất đối với tội danh Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng là 20 năm tù. Như vậy, trong trường hợp này khi đưa Dương Chí Dũng ra xét xử thì khung hình phạt cũng không vượt quá 20 năm tù, mặc dù thiệt hại rất lớn cho xã hội.
Điều 165. Bộ luật Hình sự quy định về Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
A) Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác;
B) Có tổ chức;
C) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
D) Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Theo ông, nếu hành vi của Dương Chí Dũng được cơ quan có thẩm quyền kết luận là phạm tội thì mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi này như thế nào?
Tôi nhận thấy hành vi của Dương Chí Dũng hết sức nguy hại cho xã hội. Bởi vì, không những thất thoát về kinh tế mà còn là cho xã hội bất ổn, gây dư luận xấu nhân dân… Do đó, hành vi của Dương Chí Dũng có thể sẽ được đặt vào khung hình phạt cao nhất của tội danh theo điều 165 Bộ Luật Hình sự.
Việc chạy trốn đã kéo dài quá trình điều tra, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng. Vậy đây có thể xem là tình tiết tăng nặng? Tăng nặng như thế nào?
Hành vi bỏ trốn của Dương Chí Dũng không phải là tình tiết tăng nặng trong quá trình truy tố cũng như quá trình xét xử. Bởi lẽ, những tình tiết tăng nặng chỉ được áp dụng khi có quy định tại BLHS, nhưng trong 14 tình tiết được coi là tăng nặng trong điều 48 Bộ Luật Hình sự 1999 sủa đổi 2009 không quy định về việc bỏ trốn là tình tiết tăng nặng. Mặc dù, trên thực tế đã gây khó khăn cho việc điều tra, khắc phục hậu quả và gây dư luận xấu cho xã hội nhưng trong luật không có...
Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an kêu gọi những người che giấu Dương Chí Dũng ra đầu thú để hưởng khoan hồng. Vậy tội che giấu cho Dương Chí Dũng có hình phạt như thế nào? Những người ra đầu thú sẽ được hưởng khoan hồng ra sao?
Tại điều 313 Bộ Luật Hình sự thì những người che giấu cho người phạm tội tại khoản 2, 3 của Điều 165 (Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng) là phạm tội che giấu tội phạm. Tuy nhiên cũng cần phân biệt tội che giấu tội phạm với đồng phạm. Dấu hiệu của che giấu tội phạm là không hứa hẹn trước, còn nếu hứa hẹn trước khi người khác phạm tội có thể sẽ phải tính đến tội đồng phạm theo các loại, đồng phạm giúp sức, đồng phạm xúi giục, đống phạm tham gia…nếu rơi vào trường hợp đồng phạm sẽ có mức hình phạt khác.
Điều 313. Tội che giấu tội phạm
1. Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm:
… Điều 165, các khoản 2 và 3 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng); ….
2. Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc phát hiện tội phạm hoặc có những hành vi khác bao che người phạm tội, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Về nguyên tắc luật pháp của chúng ta là luật pháp nhân đạo, “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Do đó, những đối tượng có liên quan đến việc chạy trốn của Dương Chí Dũng hoặc che giấu cho Dương Chí Dũng nếu ra đầu thú sẽ được hưởng khoan hồng của pháp luật Việt Nam. Nếu là tự thú theo điều 46 Bộ luật Hình sự sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ. Còn nếu là đầu thú sẽ được xét trong quá trình xét xử. Ở đây phải phân biệt thế nào là Đầu thú, thế nào là Tự thú. Tự thú là khi các cơ quan điều tra chưa biết, chưa ai biết tự đến cơ quan chức năng thú nhận tội của mình còn đầu thú là khi các cơ quan đã phát hiện ra tội trạng của mình không tiếp tục chạy trốn đến cơ quan chức năng thú nhận hành vi phạm tội.
Như vậy, việc đăng thông tin kêu gọi những người che giấu tội phạm ra đầu thú là có cơ sở bởi vì Dương Chí Dũng không dễ gì có thể một mình trốn chạy như vậy. Hơn nữa, để có được kết quả cơ quan Công an bắt được Dương Chí Dũng thì họ phải có những bước điều tra rất rõ ràng đường trốn chạy của Dương Chí Dũng.
Xin cảm ơn ông!
Hồng Chuyên