Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

Thông điệp kiểu... Trung Quốc

Bắc Kinh có thói quen chào mừng các quan chức cấp cao Mỹ tới viếng thăm bằng cách ra mắt những khí tài quân sự hiện đại nhất, được thiết kế để đối trọng với Mỹ.

Vào tháng 1, Chính phủ Trung Quốc đã chọn chuyến công du của ông Robert Gates (khi ấy là Bộ trưởng Quốc phòng) để thử nghiệm máy bay chiến đấu tàng hình J-20 thế hệ năm.

Gates và các quan chức Mỹ coi đây đó là động thái cố tình thể hiện sự gây hấn, đặc biệt khi chuyến thăm của ông là một nỗ lực làm ấm lại quan hệ song phương sau nhiều tháng đóng băng.

Trước đó, trên đường tới Trung Quốc, ông Gates thừa nhận rằng, một số tiến bộ của Trung Quốc, nếu được xác nhận, có thể cuối cùng sẽ xói mòn khả năng quân sự truyền thống của Mỹ ở Thái Bình Dương. “Họ rõ ràng có tiềm năng đặt một số khả năng của chúng ta vào chỗ rủi ro và chúng ta phải để tâm tới điều đó. Chúng ta phải phản ứng thích hợp bằng những chương trình của chính mình”, ông nói.

Kiểu đón chào đặc biệt

Giờ đây, Bắc Kinh lại lần nữa áp dụng kiểu chào đón rất đặc biệt ấy. Ít ngày trước, hải quân quân đội Trung Quốc (PLAN) đã tiến thành cuộc thử nghiệm đầu tiên trên biển cho tàu sân bay đầu tiên mang tên Varyag từ thời Liên Xô được nâng cấp.


Hãng Tân hoa xã tuần này tuyên bố, cuộc thử nghiệm là thành công to lớn. Điều đáng nói ở đây là động thái thử tàu sân bay diễn ra đúng vào lúc Phó Tổng thống Mỹ bắt đầu chuyến công du Trung Quốc 5 ngày.

Mặc dù bản thân Varyag không phải là khí tài quân sự đe dọa đáng kể và không khiến các nhà chiến lược Mỹ mất ăn mất ngủ, nhưng nó thể hiện quyết tâm của Bắc Kinh trong nỗ lực khoe sức mạnh với láng giềng và cuối cùng là trên phạm vi toàn cầu.

Mục đích sử dụng tàu sân bay và chương trình xây dựng tàu sân bay của Trung Quốc khiến các nước xung quanh ở Đông Á và Viễn Đông lo lắng.

Và những quan ngại ngày một lên cao với việc Trung Quốc không tiếc tiền của đầu tư vào hạm đội tàu ngầm - giờ đây là hạm đội lớn nhất thế giới với khoảng 70 tàu - và một ngân sách quốc phòng gia tăng không ngừng ở mức gần 13% trong năm nay, đạt 91,7 tỉ USD, cùng cách hành xử ngày một gây hấn trong tranh chấp lãnh thổ, đặc biệt là ở Biển Đông.

Lo lắng khiến các láng giềng Trung Quốc cũng tìm cách tăng cường đầu tư vào khả năng phòng thủ như tàu ngầm, tên lửa hành trình siêu âm về lý thuyết có khả năng đánh trúng mục tiêu là tàu sân bay.

Nhiều nước châu Á cũng hướng tới Mỹ tìm sự bảo vệ.

Không phải ngẫu nhiên khi con tàu sân bay Varyag thực hiện thử nghiệm lần đầu tiên trên biển thì tàu sân bay Mỹ USS George Washington, và nhóm tàu chiến đấu đi kèm tiến hành các cuộc tập trận ở Biển Đông với hải quân một số nước Đông Nam Á.

Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với 4 nước Đông Nam Á. Và gần đây, cả Việt Nam và Philippines đều là mục tiêu của những hành động gây hấn của Trung Quốc trong vùng biển này. Biển Đông được cho là nơi có trữ lượng dầu khí phong phú và Trung Quốc không ngại ngần tuyên bố chủ quyền với hầu hết vùng biển bằng cách tự đưa ra bản đồ chín đoạn. Bản đồ này thậm chí kéo dài tới tận Indonesia, và cách đảo Hải Nam - nơi Trung Quốc gần Biển Đông nhất tới 1.200km.

Sự quan tâm của Mỹ với vấn đề hàng hải đã khiến quan chức quân sự hàng đầu Trung Quốc - Tổng tham mưu trưởng Trần Bỉnh Đức có tới 15 phút không ngừng nghỉ, không ngại ngần lễ tiết ngoại giao để chỉ trích Washington trong cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Kim Kwanjin.

Đâu chỉ là con tàu thử nghiệm

Bắc Kinh khẳng định, tàu Varyag chưa chính thức mang một cái tên Trung Quốc, từng được mua lại với ý định làm sòng bạc nổi và trung tâm giải trí ở Macau, sẽ chỉ được sử dụng cho các mục tiêu nghiên cứu và huấn luyện.

Nhưng Trung Quốc từ lâu đã khát khao các tàu sân bay với biểu tượng cho một sức mạnh quân sự đang trỗi dậy, để biểu trưng uy thế quân sự và ngoại giao nhằm giành các lợi thế cho mình. Họ đã mua ba tàu sân bay trước Varyag và xin, mua, sao chép các thiết kế tàu sân bay cũng như công nghệ liên quan ở bất cứ nơi nào.

Kể từ năm 1987, Trung Quốc đã bắt đầu đào tạo các hoa tiêu với kỹ năng hải vận và dự kiến những thuyền trưởng của nhóm tàu sân bay nội địa đầu tiên sẽ được lựa chọn từ nhóm này.

Cuối tháng trước, tướng Lạc Nguyên - một nhà nghiên cứu cấp cao tại Học viên Khoa học quân sự Trung Quốc nói rằng, nước này cần ít nhất ba tàu sân bay hoạt động vào năm 2014 để theo kịp những kế hoạch triển khai quân sự của các đối thủ trong khu vực như Ấn Độ và Nhật Bản.

Hai tàu sân bay nội địa đầu tiên được cho là đang trong quá trình xây dựng tại một xưởng đóng tàu ở Thượng Hải.

Và không phải tất cả người Trung Quốc đều chia sẻ với quan điểm của Bắc Kinh khi coi Varyag chỉ là con tàu thử nghiệm. Một bài báo trên trang web của PLAN cách đây vài ngày đưa ra câu hỏi: "Tại sao chúng ta xây dựng nó nếu chúng ta không đủ can đảm và sẵn sàng sử dụng tàu sân bay để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ? Lý do tại sao chúng ta xây dựng tàu sân bay là để đảm bảo cho các lợi ích và quyền hàng hải của Trung Quốc được hiệu quả hơn. Chúng ta sẽ tự tin hơn và quyết tâm hơn để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ sau khi có các tàu sân bay".

Trò đố chữ ở Biển Đông
Trung Quốc tiếp tục trì hoãn những nỗ lực đa phương để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ.
Bài viết của nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore Barry Wain. Tác giả từng là biên tập của nhật báo Phố Wall châu Á.

Ngoại trưởng Mỹ và người đồng cấp Trung Quốc. Ảnh: Wall Street Journal


Các chính khách không tiếc lời ca ngợi và coi đó là bước đột phá ngoại giao, giới phân tích thì nhanh chóng khẳng định sự lạc quan. Nhưng trên thực tế, thoả thuận ký kết tháng trước giữa Trung Quốc và ASEAN xung quanh mối quan hệ Biển Đông lại chẳng thay đổi điều gì.
Gặp gỡ tại Bali, hai bên đã nhất trí về tám hướng dẫn thực thi Tuyên bố Hành xử của các bên ở Biển Đông thông qua năm 2002. Trong bản tuyên bố, họ cam kết giải quyết những bất đồng một cách hòa bình, nỗ lực tự kiềm chế, và không làm gì để "phức tạp hóa hay leo thang tranh chấp".
Thỏa thuận Bali có thể chỉ vì ASEAN đã từ bỏ khẳng định rằng, hướng dẫn phải được bàn thảo giữa 10 nước thành viên ở tư cách một nhóm trước khi thảo luận với Trung Quốc. Điều này về cơ bản là sự nhượng bộ vô nghĩa. Các thành viên ASEAN dù thế nào cũng tự thảo luận với nhau, thực tế là họ có bổn phận như vậy, và Trung Quốc biết điều đó. Toàn bộ thỏa thuận như một trò đố chữ làm xói mòn bất cứ tuyên bố nào cho rằng, nó là dấu hiệu của tiến triển thực sự.
ASEAN và Trung Quốc giờ đây đã trở lại gần nơi họ bắt đầu khi ký kết tuyên bố, mà bản thân tuyên bố ấy không mang lại sự thỏa mãn cho một bộ quy tắc hành xử thực sự. Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á đã lãng phí 9 năm với một kết quả không có thực tế. Họ đã lao vào một trò chơi tuyên truyền chính trị - ngoại giao hơn là nỗ lực nghiêm túc để quản lý các khả năng xung đột tại Biển Đông.
Trong nhiều năm, ASEAN đã thuyết phục Trung Quốc nhất trí về một bộ quy tắc hành xử ràng buộc chặt chẽ hơn, có thể ngăn chặn Bắc Kinh khỏi việc xây dựng những tiền đồn quân sự mới hay tiến hành các hành động khiêu khích khác trong khu vực. Một thỏa thuận như vậy có thể bao gồm những đặc điểm địa lý cụ thể, xác định hành vi cụ thể có thể bị coi là không thể chấp nhận được và bao gồm những biện pháp trừng phạt nếu vi phạm quy tắc.
Trung Quốc phản đối, nhưng như những gì đã làm từ một thập niên trước, họ nhất trí về một thỏa thuận mơ hồ. Trong khi Trung Quốc chấp nhận rằng, một bộ quy tắc hành xử là mục tiêu đáng mong muốn, thì tự họ lại làm mọi cách để ngăn chặn bộ quy tắc ấy bằng cách khẳng định trong tuyên bố rằng, bất cứ thỏa thuận nào đều cần đạt được bằng sự đồng thuận.
Bước đi tạm thời
Cả hai bên đều thúc đẩy tuyên bố, coi nó như bước tạm thời đánh dấu sự tin tưởng chính trị ở mức cao hơn giữa họ và góp phần vào hòa bình, ổn định ở Biển Đông - nơi diễn ra tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa Trung Quốc và bốn nước Đông Nam Á, trong đó Trung Quốc tự đưa ra tuyên bố chủ quyền lớn nhất, hầu như bao trùm toàn bộ vùng biển. Trong khi đó, Đông Nam Á lại đang tận hưởng những lợi ích từ việc Trung Quốc gia tăng thương mại và đầu tư thông qua một thỏa thuận tự do thương mại ký kết năm 2002.
Tuyên bố đã minh chứng là không có hiệu quả. Mặc dù không một bên tuyên bố chủ quyền nào vi phạm các điều khoản xâm chiếm đảo đá hoặc đảo san hô không có người ở, nhưng một số bên lại áp dụng những cách thức khác để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình, và gây hấn nhất chính là Trung Quốc - với bản đồ 9 đoạn khẳng định chủ quyền hầu như toàn bộ Biển Đông. Sau ít năm tương đối yên bình, căng thẳng trong khu vực lại gia tăng nguy hiểm trở lại.
Trong khi đó, sứ mệnh của Nhóm làm việc chung ASEAN - Trung Quốc trong việc thực thi tuyên bố lại bị đình trệ xung quanh phản ứng của Bắc Kinh về việc ASEAN thảo luận riêng rẽ trước khi gặp gỡ với Trung Quốc. Trung Quốc khăng khăng rằng, tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết song phương giữa các bên tuyên bố chủ quyền, chứ không theo con đường đa phương. Và quan chức ASEAN thì không hề nghi ngờ về việc Trung Quốc sử dụng vấn đề này để biện minh cho việc không thực thi tuyên bố.
Vào tháng 7, khi Diễn đàn Khu vực ASEAN tới gần, tất cả các bên quyết định "chiến thuật xác định lại quan điểm và làm dịu căng thẳng khi thời gian tới gần". Và ít nhất Trung Quốc đã phải thừa nhận, dù rất khôn khéo. Họ cho phép "hồ sơ tóm tắt" cuộc gặp giữa các quan chức Trung Quốc và ASEAN bao gồm cả ghi chú rằng, ASEAN có ý định tiếp tục tham vấn giữa các thành viên.
Tránh can thiệp từ Mỹ
Các nhà chiến lược thiết thực ở Đông Nam Á biết rằng, thông qua những hướng dẫn thực hiện tuyên bố hầu như không có tác dụng trong việc kiềm chế cách hành xử ngày một gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông. Sự kiềm chế đích thực với Trung Quốc là việc hiện diện của Hải quân Mỹ và cần phải có một mối quan hệ Mỹ - Trung ổn định.
Mỹ đã can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ ít nhất một lần. Năm ngoái, tại Diễn đàn khu vực ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố, Mỹ có "lợi ích quốc gia" trong tự do hàng hải ở Biển Đông. Nói về thỏa thuận năm 2002, bà nói: "Chúng tôi khuyến khích các bên đạt được thỏa thuận về một bộ quy tắc ứng xử".
Bắc Kinh hầu như chắc chắn nhất trí các hướng dẫn vì họ muốn trấn an ASEAN sau khi các tàu Trung Quốc dính dáng tới một số sự cố ở Biển Đông, khiến cả Việt Nam và Philippines lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Có lẽ Trung Quốc không muốn các thành viên ASEAN khuyến khích người Mỹ can thiệp lần nữa.
Mặc dù Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì nói rằng, nước này sẽ bắt đầu một bộ quy tắc hành xử "ở thời gian thích hợp", nhưng quan chức Đông Nam Á vẫn hoài nghi điều đó. Họ đơn giản không tin là Bắc Kinh đã thay đổi. Thực tế là, họ cho rằng Trung Quốc lại tìm ra cái cơ khác để hoãn thực thi tuyên bố.
Trung Quốc có thể đã tìm ra một cái cớ. Theo quan chức ngoại giao Đông Nam Á, Bắc Kinh gần đây thông báo với ASEAN rằng, họ muốn xóa bỏ sự nhượng bộ nhỏ nhặt - ý định tham vấn của ASEAN - ra khỏi "hồ sơ tóm tắt". 

Khi ASEAN khó xử với Trung Quốc

Giữa lúc Mỹ và châu Âu vật lộn với cuộc khủng hoảng nợ nần thì sức mạnh Trung Quốc không ngừng được mở rộng ở hầu như mọi nền kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Có một câu hỏi quan trọng đặt ra, đặc biệt với các nước Đông Nam Á và Australia: Nên ràng buộc bởi những mối quan hệ nào - thương mại và gia tăng thịnh vượng hay an ninh quốc gia?
Bài viết của tác giả Michael Richardson - nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore.

Nước Mỹ, gần đây trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, với thực tế cứ 9 người có 1 người thất nghiệp, đã gặp khó khăn khi cạnh tranh với Trung Quốc trong các cuộc đàm phán thương mại hấp dẫn và những thỏa thuận đầu tư béo bở vào các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, kể cả khi Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Thay vào đó, ngoại giao Mỹ và sự hiện diện của các lực lượng vũ trang nước này trong khu vực đã góp phần tạo ra sự đối trọng với sức mạnh quân sự đang trỗi dậy của Trung Quốc, sức mạnh ấy một lần nữa được tăng tốc khi vào ngày 10/8, Trung Quốc đã thử nghiệm trên biển tàu sân bay đầu tiên.
ASEAN - Trung Quốc: an ninh quốc gia... Ảnh: Getty Images

Trong bối cảnh tranh luận tháng trước về tự do hàng hải và các vấn đề liên quan khác ở Biển Đông tại Diễn đàn khu vực ASEAN, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì cho biết, châu Á đóng góp 50% tăng trưởng kinh tế toàn cầu hiện nay và Trung Quốc là 26%. Ông nhấn mạnh, trong 5 năm tới, nhập khẩu của Trung Quốc dự kiến đạt khoảng 10 nghìn tỉ USD và rằng, hầu hết "sẽ từ các nước hiện diện ở đây".

Đó là một lời nhắc nhở về việc Trung Quốc sẽ sử dụng ảnh hưởng kinh tế thế nào để củng cố các mối quan hệ chiến lược với các quốc gia mà họ coi là quan trọng, trong đó có Australia. Trung Quốc giờ đây là thị trường lớn nhất của Australia. Nước này tiêu thụ khối lượng lớn các khoáng sản, năng lượng, nông sản xuất khẩu của Australia, thúc đẩy tăng trưởng cho Australia kể cả khi sản xuất, du lịch và chi tiêu tiêu dùng chậm lại.

Sức hút thị trường khổng lồ của Trung Quốc đặc biệt hấp dẫn trong bối cảnh Mỹ và châu Âu sụt giảm, đối mặt với một tương lai bất định. Ngược lại, Trung Quốc cung cấp cho các láng giềng châu Á - Thái Bình Dương một đầu máy kinh tế khổng lồ.

Những lợi ích chung hiển thị rõ ràng trong Hiệp định Tự do thương mại Trung Quốc - ASEAN (CAFTA), hiệp định lớn nhất giữa các quốc gia đang phát triển và là khối thương mại đứng thứ ba thế giới, tính về GDP, sau EU và Hiệp định Tự do thương mại Bắc Mỹ gồm Mỹ, Canada và Mexico.

Kể từ khi CAFTA có hiệu lực vào năm 2010, thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á tăng vọt. Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Trần Đức Minh hôm 12/8 nói rằng, giá trị thương mại hai chiều đã tăng từ 8 tỉ USD năm 1991 lên gần 293 tỉ USD năm 2010, gấp 37 lần. Theo số liệu hải quan Trung Quốc, con số này tăng tới 25% trong nửa đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước, đạt 171 tỉ USD. Đông Nam Á có được thặng dư gần 11 tỉ USD.

Thứ trưởng Thương mại Trung Quốc Cao Hổ Thành tháng trước nói rằng, ông tin là giá trị thương mại thường niên ASEAN - Trung Quốc sẽ đạt gần 500 tỉ USD vào cuối năm 2015. Ông nhấn mạnh, Bắc Kinh không tìm kiếm thặng dư thương mại với Đông Nam Á và hoan nghênh nhập khẩu nhiều hơn.

Hay thương mại và thịnh vượng? Ảnh: foreignpolicy 

Thực tế là, theo một số nhà phân tích, khi Trung Quốc chuyển từ mô hình xuất khẩu dẫn dắt tăng trưởng trở thành một nền kinh tế với động lực chính từ tiêu dùng nội địa, thì Đông Nam Á sẽ được hưởng lợi chính. Nhập khẩu của Trung Quốc từ khu vực sẽ gia tăng. Thêm vào đó, mức lương lao động nội địa gia tăng khiến các ngành công nghiệp Trung Quốc sẽ tăng cường đầu tư vào những khu vực giá nhân công thấp ở Đông Nam Á, giống như Nhật Bản từng làm trong những năm 1970.

Bộ Thương mại Trung Quốc nói rằng, đầu tư Trung Quốc - ASEAN đạt 80 tỉ USD vào giữa năm nay, trong đó đầu tư của Trung Quốc tại Đông Nam Á chiếm khoảng 13 tỉ USD. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của khối, trong khi ASEAN kể từ tháng 4 đã thế chân Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba với Trung Quốc sau EU và Mỹ.

Trung Quốc là ngọn đèn hiệu của cả sức mạnh kinh tế và quân sự trỗi dậy, một cực địa chiến lược của tương lai. Tuy nhiên, có một mâu thuẫn mà Bắc Kinh chậm nhận ra là: Trong khi viễn cảnh hội nhập thương mại và kinh tế với Trung Quốc nói chung là tạo ra hấp lực với Đông Nam Á, thì sức mạnh quân sự đang trỗi dậy và sự quả quyết ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và những nơi khác lại tạo ra sự bất mãn.

Quan chức Trung Quốc đang thúc giục ASEAN chấp nhận sự đổi chác rằng: Không cạnh tranh với tuyên bố chủ quyền "không thể tranh cãi" của Bắc Kinh trong việc kiểm soát hầu như toàn bộ Biển Đông - trái tim hàng hải của Đông Nam Á - để đổi lấy hứa hẹn về một tương lai kinh tế tươi sáng.

Tuy nhiên, như nhà khoa học chính trị Minxin Pei chỉ ra hồi đầu năm nay, thực tế địa chính trị lại là điều khác biệt. "Các quốc gia có thể thèm khát, nhưng yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ nhất trong quan hệ quốc tế là sự sợ hãi, đặc biệt bắt nguồn từ sự bất định của một cường quốc đang lên".

Một số nước thành viên ASEAN như Myanmar, Campuchia và Lào hay thậm chí Thái Lan đã không kháng nổi hấp lực Trung Quốc, một phần vì họ gần với Trung Quốc và có thể nhìn thấy những lợi thế kinh tế lớn, và một phần vì họ không có tuyên bố chủ quyền hàng hải ở Biển Đông.

Nhưng Trung Quốc lại có tranh chấp chủ quyền với một số nước khác như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore. Những nước này đã tăng cường phòng thủ và tìm kiếm sự hỗ trợ từ Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ cũng như những cường quốc khác bên ngoài có lợi ích ở Biển Đông. Australia cũng làm như vậy.

Về mặt kinh tế, Trung Quốc và các nước này chưa bao giờ gần gũi hơn. Về mặt chiến lược, họ lại chia tách bởi những mục tiêu khác nhau và sự hồ nghi.


Trước Trung Quốc, liệu Úc có bất an?

Ngay sát sườn, Trung Quốc đang phô trương thanh thế lực lượng hải quân, điển hình là việc trang bị tàu sân bay đầu tiên của nước này."Ở nhà một mình"
Quay trở lại những năm tháng của chế độ thuộc địa, nỗi sợ thường trực của người Úc là nỗi sợ bị lìa bỏ. Những năm đầu thế kỷ 20, nước Úc vẫn còn nằm dưới sự bảo hộ của Anh Quốc bởi một loại ảnh hưởng thân thiết nhưng xa vời. Sau khi Singapore rơi vào tay Nhật Bản năm 1942, nước Anh đã buông tay khỏi thuộc địa cũ của mình. May mắn là liền đó Mỹ nhận lấy vai trò của Anh trong của việc bảo hộ an ninh cho nước Úc. Tuy nhiên, trước ba thay đổi lớn của thời cuộc, Úc lại một lần nữa trở nên lúng túng trước sự cô độc của mình.
Thay đổi đầu tiên phải kể đến quyền lực kinh tế ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc, kéo theo sự gia tăng quyền lực chính trị và quân đội ở nước này. Thay đổi lớn thứ hai là vai trò đơn cực của nước Mỹ chắc chắn sẽ không còn nữa trong một thế giới trở nên đa phương hóa. Và thay đổi lớn thứ ba, đó là lần đầu tiên đối tác thương mại lớn nhất của Úc - chính là Trung Quốc - lại không phải là một đồng minh chiến lược. Tất nhiên không thay đổi nào trên đây trực tiếp đe dọa nước Úc lập tức, nhưng kể ra, cuộc chơi giờ đây chẳng còn đơn giản nữa.

Đất đai vườn nhà rộng lớn và trù phú sẽ trở thành một mối lo ngại khi hàng xóm láng giềng của anh là những quốc gia nghèo, chính thể thì độc đoán chuyên quyền và bất ổn. Úc đang ở trong tình thế như vậy. Gia nhập vào một nhóm hàng xóm liền kề như các nước Đông Nam Á, nước Úc không chắc đã thực sự mặn mà với điều đó. Ngược lại, cộng đồng này có thực sự chấp nhận coi nước Úc trong mái nhà chung châu Á hay không? (vòng loại World Cup cho một ví dụ không vui vẻ lắm, bởi kể từ khi đội tuyển Úc rời Châu Đại Dương gia nhập Liên đoàn bóng đá châu Á, họ luôn lấy mất một suất chơi của lục địa này tại ngày hội bóng đá thế giới - NV).
Vậy thì nước Úc sẽ ở đâu?
Sự thật hiển nhiên là, nước Úc đang có một quyền lực lớn hơn cả sự tự tin của họ. Trong số 193 quốc gia, Úc đứng thứ sáu về diện tích đất đai, đứng thứ 13 về sản lượng kinh tế, đứng thứ 14 về chi tiêu quốc phòng và đứng thứ 50 về dân số. Úc không phải là quốc gia đông dân song hiện tại đây chưa phải là vấn đề nổi cộm.
Ngân sách viện trợ nước ngoài (ODA) đã gia tăng gấp đôi khi thủ tướng Howard nắm quyền và chính phủ hiện thời hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng gấp đôi nguồn ODA, tới năm 2015, khoản này sẽ chiếm 0,5% GDP. Không lâu nữa, viện trợ quốc tế sẽ là một chương trình toàn cầu thay vì chỉ hướng tới một số quốc gia trong khu vực như hiện nay. Bên cạnh đó, tác động của Mỹ cũng sẽ khiến Úc phải dành tiền để tăng cường khả năng quốc phòng.
Ngay sát sườn, Trung Quốc đang phô trương thanh thế lực lượng hải quân, điển hình là việc trang bị tàu sân bay đầu tiên của nước này. Chưa rõ đây có phải là sự thách thức với vị trí hàng đầu của Mỹ về sức mạnh hải quân trong và ngoài khu vực Thái Bình Dương hay không. Vài chuyên gia tiên liệu một cách bi quan rằng trật tự thế giới đang được thiết lập lại. Một số nhà phân tích lạc quan cho rằng Trung Quốc sẽ vẫn chìm đắm với việc phát triển kinh tế trong ít nhất hai hoặc ba thập kỷ nữa. Tuy nhiên tất cả đều đồng ‎ý rằng, những hiện tượng nêu trên quả là đáng báo động, giống như khoảng thời gian 1995 - 96, Trung Quốc tiến hành thử nghiệm phóng tên lửa còn Mỹ tập trận ở eo biển Đài Loan.
Nước Úc trong sách lược của mình buộc phải tính đến những động thái của Mỹ và Trung Quốc trong tương lai. Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược ở Đại học Quốc gia Úc, tin rằng, đối mặt với tình hình tăng cường quyền lực của Trung Quốc, Mỹ hoặc sẽ rút chân hoàn toàn khỏi châu Á để phân vùng ảnh hưởng với Trung Quốc, hoặc có thể sẽ cạnh tranh quyết liệt để giữ vị trí số một của mình. Ông e ngại rằng nếu Mỹ cương quyết "thi thố" với Trung Quốc đến cùng, tình huống xấu nhất là chiến tranh rất có thể sẽ xảy ra, mà loại chiến tranh này lại là loại sử dụng vũ khí hạt nhân! Về phần nước Úc, theo ông, tốt hơn cả là Mỹ sẽ từ bỏ việc tranh chấp vị trí số một với Trung Quốc, chấp nhận chia sẻ quyền lực với Trung Quốc và đứng bên ngoài sân khấu "buổi hòa nhạc Châu Á".
Lập luận của giáo sư White đã làm nổi lên nhiều ‎ý kiến trái chiều ở Úc, nhưng chỉ một số ít người cho rằng Mỹ sẽ chia sẻ châu Á với Trung Quốc. Hơn nữa, họ cho rằng, những động thái giữa Trung Quốc và Mỹ mới chỉ là dấu hiệu tái can thiệp và cạnh tranh. Người ta hy vọng mục tiêu quân sự chính của Trung Quốc là kiểm soát các vùng biển xung quanh và ngăn chặn các quốc gia khác xâm phạm đến lãnh hải của Trung Quốc chứ không phải là  thách thức vị trí số một của Mỹ. Hai nước lớn này sẽ tiếp tục vừa hợp tác vừa "chen vai thích cánh".
Ảnh hưởng của Mỹ vẫn khá rõ rệt trên đất Úc. Không có thay đổi gì lớn trong quan hệ hai nước ngoại trừ việc nước Úc ngày một giàu lên, trong khi nước Mỹ đang cảm nhận hơi thở của sự túng thiếu. Điều này có nghĩa Mỹ sẽ rất cần đến những lực lượng đồng minh của Úc có mặt bên cạnh hạm đội của mình, ở Guam chẳng hạn, để qua đó, Chú Sam sẽ cho cả thế giới biết, ai là ông chủ khu vực Thái Bình Dương. Nước Úc, dĩ nhiên khó lòng chào đón ý tưởng này: họ muốn đứng giữa và làm bạn với cả hai ông lớn.
Thái độ của Úc với Trung Quốc là thái độ ngập ngừng, thăm dò. Hầu hết người Úc nhìn nhận quan hệ giữa hai nước là một mối quan hệ đầy thiện chí. Hồi tháng 4/2011, Thủ tướng Gillard đã có chuyến viếng thăm thành công tới Bắc Kinh. Cùng lúc đó, trong một cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu Lowy, non nửa ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành mối đe dọa quân sự với Úc trong vòng hai mươi năm tới. Nhưng đối với những người như Colin Barnett, Thủ hiến bang Tây Úc, nơi các tài nguyên dường như bị hút cả về Trung Quốc, chẳng có gì đáng lo cả. Ngài Thủ hiến nói rằng nguyên năm ngoái ông đã tiếp tới 85 đoàn khách từ Trung Quốc và thời gian ông làm việc với Bắc Kinh còn nhiều hơn thời gian ông dành cho thủ đô Canberra...


Chuyện con tàu lớn ở Biển Đông

Tàu sân bay Trung Quốc đã hoàn thành lần thử nghiệm đầu tiên trên biển và cho tới nay, nó là tàu chiến lớn nhất so với bất kỳ quốc gia nào ở châu Á, có thể mang lại những khả năng để Trung Quốc thay đổi một cuộc chơi.
Tuy nhiên, tàu sân bay không thể giúp Trung Quốc khẳng định chủ quyền trên Biển Đông - một vấn đề hàng hải phức tạp nhất của họ - và con tàu có thể minh chứng một trách nhiệm ngoại giao hơn là một tài sản quân sự.
Dài 300 mét và nặng hơn 60.000 tấn, tàu sân bay Trung Quốc hiện là tàu chiến lớn nhất ở châu Á. Không một quốc gia nào trong khu vực có thể vận hành máy bay chiến đấu từ một con tàu chiến ngoại trừ Thái Lan, nước sở hữu tàu Chakri Narubet với kích cỡ bằng 1/5 tàu của Trung Quốc. Khi hoạt động đầy đủ, tàu sân bay Trung Quốc có thể mang 40 chiếc chiến đấu cơ J-15 (sao chép từ Sukhoi 33) và 20 máy bay cánh quạt trong đó có trực thăng chống ngầm Ka-28.
Ở bề ngoài, khả năng này dường như có thể quyết định chuyện thay đổi cán cân sức mạnh ở Biển Đông, nơi Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Hiện nay, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở các vùng biển lượn sát bờ biển của Philippines cũng như kéo dài xuống phía nam Brunei trên đảo Borneo, trước khi vòng lên ôm sát bờ biển Việt Nam tới phía nam Trung Quốc. Tuyên bố của quyền của Trung Quốc còn bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nơi được cho là rất giàu tài nguyên năng lượng.
Đe doạ đối thủ
Với hoạt động của một tàu sân bay ở căn cứ hải quân của Trung Quốc tại Tam Á trên đảo Hải Nam, Trung Quốc có thể duy trì được ưu thế trên không ở bất kể điểm nào trong vùng tranh chấp Biển Đông - một điều kiện tiên quyết cho quyết định quân sự hay những nỗ lực ngoại giao để thực thi tuyên bố chủ quyền hàng hải của họ và buộc đối thủ rút lui khỏi các hoạt động thương mại hay thiết lập cơ sở trên các đảo.

Ảnh: warnewsupdates
Khả năng này cũng sẽ giúp Trung Quốc giảm bớt độ "cứng rắn" của các quốc gia trong các tranh chấp hàng hải thường xuyên xảy ra ở những vùng tranh chấp cũng như sự lắng xuống của chủ nghĩa dân tộc.
Cho dù các quan chức quốc phòng Trung Quốc khẳng định, tàu sân bay mới là nhằm nghiên cứu khoa học và huấn luyện, thì con tàu rõ ràng đã thực hiện một chức năng chiến lược. Tân hoa xã đăng tải bài bình luận ngay trước khi con tàu rời cảng rằng: "Xây dựng lực lượng hải quân mạnh nhằm tương xưng với vị thế đang lên của Trung Quốc là bước đi cần thiết, và lựa chọn không thể tránh khỏi để nước này bảo vệ các lợi ích quốc gia được toàn cầu hoá".
Tuy nhiên, kể cả khi đi vào hoạt động thì tàu sân bay và nhóm máy bay của nó sẽ rất dễ bị tổn thương và Trung Quốc chưa chắc sẽ mạo hiểm sử dụng tàu trong bất kỳ một cuộc đối đầu nào với các đối thủ ở Biển Đông.
Thiếu máy phóng máy bay hoặc dây chống sét, tàu sân bay không thể vận hành máy bay cảnh báo sớm cần thiết để cung cấp vùng phủ sóng radar cho toàn bộ đội tàu. Điều đó có nghĩa là tàu sân bay sẽ bị hạn chế phạm vi nhận thức, không thể nhìn thấy hoặc phản ứng với những đe doạ bên ngoài khu vực radar trên tàu. Hạn chế về hậu cận cũng giới hạn thời gian tàu sân bay có thể hoạt động trên biển: Hải quân quân đội Trung Quốc chỉ sở hữu năm tàu bổ sung có thể đi biển, không tàu nào trong số đó vượt quá 22.000 tấn.
Lớn nhất là vấn đề bảo vệ con tàu chưa phù hợp. Trung Quốc có hai tàu khu trục loại 52C với hệ thống radar cho phép có thể theo dấu các tên lửa và máy bay cùng bốn tàu khác đang trong quá trình xây dựng. Song việc tương tác radar với tên lửa phòng không HHQ nội địa để có thể bắn hạ các tên lửa siêu âm lướt trên biển sẽ là thách thức rất lớn. Tàu sân bay cũng không thể chỉ trông chờ vào nỗ lực bảo vệ bề mặt. Thiếu hệ thống liên lạc radio tần số rất thấp, các tàu ngầm tuần tra tầm xa của Trung Quốc sẽ phải vật lộn để hoạt động trong tầm ngắn với sứ mệnh bảo vệ một nhóm tàu sân bay.
Phòng thủ
Cho dù có những khiếm khuyết, nhưng những láng giềng ở phía nam Trung Quốc dường như chắc chắn một điều rằng, Biển Đông sẽ trở nên quá nguy hiểm nếu Trung Quốc maọi hiểm điều tàu sân bay tới vùng tranh chấp.
Hàng loạt nước trong khu vực đã tăng cường mua sắm vũ khí, thiết bị hay nỗ lực cải thiện quan hệ với các nước lớn. Malaysia đã sẵn có những khả năng tàu ngầm tốt. Cả Indonesia và Philippines đều có thể nhanh chóng phát triển các khả năng ngăn chặn hùng mạnh, và chi phí tương đối ít hơn bằng việc triển khai tên lửa chống hạm tới những tiền đồn chủ chốt. Indonesia đã có những cuộc thương thảo với Ấn Độ để mua tên lửa BrahMos - nó được đánh giá là siêu vũ khí; có động năng lớn, tầm bắn và động cơ phản lực tĩnh siêu âm, trở thành loại vũ khí hủy diệt có độ chính xác cao, tốc độ nhanh chưa từng thấy và là sản phẩm hợp tác của Nga, Ấn Độ.
Philippines thì có thể theo đuổi hệ thống tên lửa của Mỹ.
Thực tế là, Biển Đông sẽ trở thành một môi trường cực kỳ nguy hiểm với tàu sân bay và khiến chính phủ Trung Quốc rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tàu sân bay rất phổ biến ở Trung Quốc - nơi nó được xem là biểu tượng cho sự vươn lên của một đất nước tới vị trí siêu cường. Thậm chí những người hâm mộ trực tuyến còn đã sẵn sàng đặt cho nó cái tên Thi Lang, - tên một vị đô đốc đã chinh phục Đài Loan vào thế kỷ 17. Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư nguồn vốn chính trị và tài chính lớn cho dự án này, rồi cả về giá trị tuyên truyền hình ảnh, chi phí cho máy bay chiến đấu hải quân cũng như các cơ sở đào tạo.
Tuy nhiên, một môi trường hàng hải nơi người Trung Quốc nóng lòng nhất để khẳng định sự hiện diện của hải quân - Biển Đông - lại là nơi mà các đô đốc Trung Quốc hầu như chưa từng mạo hiểm hạ thuỷ tàu sân bay. Với nhận thức này, các quốc gia duyên hải của Biển Đông có lý do để hoan nghênh chương trình tàu sân bay. Trên thực tế, nó thậm chí có thể củng cố tuyên bố chủ quyền của họ. Trong khả năng xảy ra đối đầu, giới lãnh đạo Trung Quốc đột nhiên cần phải giải thích tại sao con tàu hàng đầu của họ lại trở nên vô dụng trong khẳng định sức mạnh ở những vùng biển mà nước này tự tuyên bố chủ quyền.

Ba 'cây đinh' trong chiến lược vũ khí Trung Quốc

Trong bối cảnh Trung Quốc có va chạm về vấn đề biển đảo với láng giềng, hai trong số ba loại vũ khí mang tính cột mốc trong chiến lược phát triển vũ khí của Bắc Kinh liên quan đến sức mạnh hải quân.

Chiến lược tập trung phát triển năng lực vũ khí cho hải quân giúp sức mạnh trên biển của Trung Quốc được đánh giá là có thế áp đảo trong khu vực. Các hệ thống vũ khí mới được bổ sung cũng có thể giúp Bắc Kinh đe doạ cả thế áp đảo của hải quân Mỹ trong tương lai. Do đó có sự lo ngại của nhiều nước láng giềng về sự phát triển quân sự của Trung Quốc là điều khó tránh khỏi.
Theo Tiến sĩ Andrew Erickson, một chuyên gia về Trung Quốc của Trường Chiến tranh hải quân Mỹ (Naval War College): "Trung Quốc không muốn phát động một cuộc chiến tranh mà thay vào đó tìm cách sử dụng sức mạnh quân sự đang lên của mình để thực hiện chiến thuật 'không đánh cũng thắng', bằng việc răn đe những hành động mà họ cho là làm phương hại đến các lợi ích cốt lõi của họ".
Theo các chuyên gia, để đạt được chiến thuật "không đánh cũng thắng" thì không có cách nào khác là phát triển kho vũ khí. Có 3 loại vũ khí mới mang tính biểu tượng cho việc mở rộng sức mạnh quân sự của Trung Quốc là tàu sân bay, tên lửa diệt tàu sân bay và máy bay chiến đấu tàng hình.
Trong số 3 vũ khí đinh nói trên, chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc vừa hoàn tất chuyến chạy thử trên biển hồi tuần trước, sau nhiều năm cải tạo từ vỏ tàu mua của Ukraina. Còn mẫu máy bay tàng hình lộ diện từ cuối năm ngoái và đang liên tục thực hiện các chuyến bay thử trong những ngày qua.
Loại tên lửa được cho rằng có khả năng diệt tàu sân bay của Trung Quốc là vũ khí duy nhất trong số trên đã qua quá trình thử nghiệm và sẵn sàng chiến đấu. Giới chuyên gia quân sự Mỹ phỏng đoán Bắc Kinh đã bắt đầu triển khai tên lửa đạn đạo độc nhất trên thế giới có khả năng tiêu diệt các chiến hạm dang di chuyển này.

Tên lửa diệt tàu sân bay

Tên lửa của Trung Quốc. Ảnh: Military.
Tên lửa Dong-Feng DF-21D của Trung Quốc. Ảnh: Defence Talk.
Trung Quốc đang triển khai một lực lượng hùng hậu tên lửa và các loại vũ khí tầm xa khác để vươn rộng khả năng tác chiến ra ngoài bờ. Trong số này nổi bật nhất là tên lửa đạn đạo chống hạm độc nhất trên thế giới Dong-Feng DF-21D. Độc nhất vì đây là loại tên lửa đầu tiên đặt trên bờ có khả năng tấn công được các nhóm tàu sân bay của Mỹ, vốn từ lâu là trụ cột trong sức mạnh hải quân của Washington.
Hoả tiễn Dong-Feng DF-21D (phương Tây gọi là CSS-5) được bắn từ bệ phóng di động đặt trên xe tải chuyên dụng rất linh hoạt, với tầm bắn đạt 1.500 km. Tên lửa đạn đạo tầm trung một đầu đạn dùng chất đẩy rắn hai kỳ này cho phép quân đội Trung Quốc có thể tấn công các chiến hạm đang di chuyển ở vùng tây Thái Bình Dương, địa bàn đang do hải quân Mỹ chiếm thế áp đảo.
Giới chức Mỹ và Đài Loan đều khẳng định Trung Quốc đã triển khai sẵn sàng tên lửa DF-21D. Không khó để hiểu tại sao Bắc Kinh muốn có loại hoả tiễn với khả năng diệt các loại tàu chiến đủ cỡ này. Theo các chuyên gia đó là vì Trung Quốc muốn hạn chế sức mạnh vượt trội của hải quân Mỹ, ngăn khả năng Washington có thể can thiệp các cuộc khủng hoảng trong tương lai liên quan đến đảo Đài Loan.
Sở dĩ DF-21D đã sẵn sàng chiến đấu vì dự án chế tạo hoả tiễn này được khởi động từ cuối những năm 60. Bộ Quốc phòng Mỹ ước tính Trung Quốc đang có từ 60 đến 80 quả tên lửa loại này cùng 60 bệ phóng tự hành. DF-21D là phiên bản mới nhất trong dự án chế tạo hoả tiễn trong nhiều năm của Bắc Kinh và là tên lửa đạn đạo chống hạm (ASBM) đầu tiên trên thế giới. Một người anh em của loại tên lửa này cũng được phát triển để có khả năng phá huỷ vệ tinh.
Tàu sân bay
Trung Quốc ôm giấc mộng tàu sân bay từ nhiều năm và giới chức quân sự nước này gần đây cũng thể hiện rõ quan điểm rằng một quân đội mạnh thì không thể thiếu loại vũ khí của các "đại gia" này. Ngay từ Thế chiến II, tàu sân bay đã là phương tiện mang tính quyết định đến sức mạnh hải quân của các cường quốc.
Tàu sân bay Shi Lang hoàn thiện từ vỏ tàu Varyag hoàn tất chuyến chạy thử hồi tuần trước. Ảnh: China Daily.
Cho đến nay Mỹ vẫn chưa có đối thủ về lực lượng tàu sân bay, kể cả thời Liên Xô còn hùng mạnh cũng không thể so sánh với Mỹ về loại vũ khí này. Mỹ cũng có một lực lượng hùng hậu các loại máy bay chiến đấu đủ loại chuyên hoạt động trên tàu sân bay sau nhiều năm phát triển liên tục. Mỗi chiếc tàu sân bay lại có cả một hạm đội đi kèm để bảo vệ gồm nhiều loại tàu ngầm và chiến hạm.
Còn Trung Quốc sau nhiều năm ấp ủ, nước này đang bắt đầu bước chân vào cuộc chạy đua sở hữu tàu sân bay với việc cho chạy thử chiếc đầu tiên mang tên Shi Lang tuần trước. Tàu sân bay được hoàn thiện từ vỏ tàu Varyag mua từ Ukraina này sẽ sử dụng loại máy bay tiêm kích do Trung Quốc sản xuất mang tên J-15 Flying Shark, được dựa trên mẫu máy bay Sukhoi SU-33 của Nga.
Như vậy Trung Quốc đã chọn con đường tắt để hiện thực hoá giấc mơ tàu sân bay bằng cách dựa trên công nghệ của nước ngoài, mà cụ thể là công nghệ của Nga rồi địa phương hoá khâu chế tạo. Kết quả của chiến lược này là Trung Quốc đã có tàu sân bay, nhưng cách thức phát triển có phần "ăn xổi" này cũng khiến Bắc Kinh chỉ sở hữu được chiếc tàu không thể sánh với tàu sân bay của Mỹ.
Giới chuyên gia phương Tây nhấn mạnh tàu sân bay Trung Quốc sẽ chủ yếu phục vụ công tác huấn luyện. Nguyên nhân vì để vận hành hạm đội tàu sân bay cần phải có kinh nghiệm chỉ có thể thu được qua thời gian. Bản thân giới chức Trung Quốc khi lần đầu tiên chính thức công bố thông tin về tàu sân bay của mình cũng nói rằng nó sẽ được phục vụ cho huấn luyện và nghiên cứu.
Bên cạnh đó tàu sân bay Trung Quốc còn mang ý nghĩa chính trị hơn là sức mạnh quân sự. Nói như Tiến sĩ Andrew Erickson, Trung Quốc sẽ sử dụng chiếc tàu sân bay đầu tiên của mình để khẳng định hình ảnh của một cường quốc đang lên đối với thế giới.
Máy bay chiến đấu tàng hình Chengdu J-20 của Trung Quốc trong chuyến bay thử ngày 15/8 vừa qua. Ảnh:
Chiếc Chengdu J-20 của Trung Quốc trong chuyến bay thử ngày 15/8 vừa qua. Ảnh: Global Times.
Công nghệ hàng không của Trung Quốc đang tiến mạnh mẽ và theo truyền thống vẫn dựa trên việc phát triển các mẫu máy bay thời Liên Xô. Đỉnh cao trong chiến thuật "học hỏi công nghệ" từ nước ngoài trong chế tạo máy bay của Trung Quốc là mẫu máy bay tàng hình Chengdu J-20 đang gây xôn xao với hàng loạt chuyến bay thử vừa qua.
Việc công bố hình ảnh Chengdu J-20 có tác động rất lớn vì mẫu máy bay này được cho là đã đưa Trung Quốc gia nhập nhóm các nước rất ít trên thế giới có thể sản xuất chiến đấu cơ thế hệ thứ năm có khả năng tàng hình trước radar. Chuyến bay đầu tiên của Chengdu J-20 được thực hiện hồi tháng 1, chỉ vài giờ trước khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tới Bắc Kinh.
Tuy có ảnh hưởng lớn, sức mạnh thực chất của Chengdu J-20 cũng không khác so với tàu sân bay Shi Lang theo quan điểm của giới chuyên gia vũ khí. Douglas Barrie đến từ Học viện Quốc tế về Chiến lược học ở London (International Institute of Strategic Studies) khẳng định Chengdu J-20 không thể nào so sánh với máy bay cùng loại của Mỹ.
"Nhưng chiếc máy bay này đánh dấu tham vọng của Trung Quốc trong việc phát triển khả năng không chiến và nền công nghiệp quốc phòng hàng không của họ", BBC dẫn lời chuyên gia Douglas Barrie. Dù đã có thể bay lượn trên trời, mẫu máy bay đời mới có khả năng tàng hình của Trung Quốc cũng phải mất hàng thập kỷ thử nghiệm mới có thể tham chiến thực sự.
Tuy nhiên, tàu sân bay Shi Lang hay máy bay tàng hình Chengdu J-20 dù chưa thể trở thành vũ khí trên chiến trường thì đây vẫn là cột mốc trong sự phát triển năng lực quân sự không ngừng của Trung Quốc. Chúng mang thông điệp về khả năng Bắc Kinh có thể thách thức thế áp đảo về không quân và hải quân hiện nay của Mỹ trong tương lai không xa. Điều đó cũng giải thích việc tại sao Washington "soi" một cách đặc biệt đến các dự án chế tạo vũ khí này của Trung Quốc.

Học giả Trung Quốc hiến kế thực hiện chính sách "láng giềng tốt" 

 Mặc dù Trung Quốc theo đuổi một "chính sách láng giềng tốt" ở châu Á, nhưng nước này lại đang đối mặt với sự chỉ trích ngày càng lớn từ các quan chức, báo chí và người dân trong khu vực. Dường như đã tới lúc Bắc Kinh cần xem xét và cải tổ chiến lược châu Á của họ.

Thách thức mới nhất đến từ Nhật Bản. Vào ngày 10/8, Chánh văn phòng Nội các Yukio Edano tuyên bố, Nhật Bản sẽ triển khai Lượng lượng Phòng vệ nếu nước ngoài xâm chiếm quần đảo Senkaku (đây là nơi tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư). "Nếu nước khác xâm chiếm các đảo, Nhật Bản sẽ viện tới quyền tự phòng thủ và loại bỏ kẻ xâm chiếm bằng bất cứ sự hy sinh nào", Edano nói tại Tokyo, rõ ràng là đề cập tới các hành động hải quân của Trung Quốc trong khu vực.
Tuyên bố của ông Edano đưa ra sau khi Nhật công bố Sách trắng Quốc phòng năm 2011, cuốn sách được nội các của Thủ tướng Naoto Kan thông qua một tuần trước đó. Sách trắng mô tả lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp hàng hải với các nước láng giềng là "quả quyết".
"Việc hiện đại hoá lực lượng hải quân và không quân của Trung Quốc trong những năm gần đây, phạm vi ảnh hưởng có vẻ đã phát triển ra ngoài vùng biển lân cận... Dự kiến Trung Quốc sẽ cố gắng mở rộng phạm vi hoạt đông, và làm cho các hoạt động hải quân trở nên thường xuyên hơn ở các vùng nước xung quanh Nhật Bản bao gồm biển Hoa Đông và Thái Bình Dương cũng như Biển Đông", sách trắng viết. Trung Quốc được mô tả trong cuốn sách là "tắc trách" khi liên tục phủ nhận quá trình hiện đại hoá quân sự làm ảnh hưởng tới láng giềng trong khu vực.
Trước khi Nhật công bố sách trắng quốc phòng, một nhóm các nghị sĩ Philippines và quan chức quân sự đã tới đảo Pagasa ngày 20/6. Khi các quan chức này tới đảo, hát quốc ca với người dân, thì ngoại trưởng Trung Quốc đang tham dự diễn đàn ASEAN ở Bali, Indonesia nhằm tìm kiếm biện pháp tháo gỡ căng thẳng ở Biển Đông.
Trước đó, cả Philippines và Việt Nam đều mạnh mẽ phản đối việc các tàu Trung Quốc quấy nhiễm, làm hư hại tàu thăm dò, tàu cá của hai nước ở Biển Đông.
Chỉ trích thậm chí còn xuất phát từ cả Singapore, là nước không có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và được xem có quan điểm khá thân thiện trong Đông Nam Á. Đầu năm nay, vị chính khách cấp cao Lý Quang Diệu cho biết, ông thích Mỹ hơn là Trung Quốc chiếm ưu thế ở châu Á, vì ông thấy Mỹ "tốt bụng" hơn.
Khắp khu vực, những tuyên bố phản đối Trung Quốc có thể thấy một cách thường xuyên trong các phát ngôn của quan chức chính phủ cũng như bình luận báo chí.
Không một cường quốc nào khác như Mỹ, EU hay thậm chí là Ấn Độ lại là tâm điểm của quá nhiều cáo buộc bất lợi như vậy từ các nước láng giềng. Những tuyên bố như vậy không hề có lợi có các nỗ lực của Trung Quốc trong việc xây dựng và tăng cường các mối quan hệ hữu nghị với láng giềng theo "chính sách láng giềng tốt".

Nhật tuyên bố sẽ triển khai Lượng lượng Phòng vệ nếu nước ngoài xâm chiếm quần đảo Senkaku (đây là nơi tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) Ảnh: Wordpress
Chính sách ngoại giao dựa trên bốn nguyên tắc chiến lược: các siêu cường lớn là đối tác chủ chốt, các nước láng giềng là đối tác chính, các nước đang phát triển là nền tảng của chính sách ngoại giao Trung Quốc và các thể chế đa phương là nền tảng quan trọng.
Để thực hiện chiến lược các nước láng giềng là đối tác chính, Bắc Kinh tuân thủ các nguyên tắc "coi các nước láng giềng là đối tác và đối xử với họ một cách thiện chí" và "xây dựng một vùng lân cận thiện chí, yên bình và thịnh vượng".
Trong tháng 4, tại Diễn đàn châu Á Bác Ngao - một nền tảng của hội nhập kinh tế khu vực, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh, để xây dựng một châu Á hoà hợp, các nước cần tôn trọng những nền văn minh đa dạng và thúc đẩy quan hệ láng giềng. "Chúng ta cần chuyển đổi mô hình phát triển và thúc đẩy phát triển toàn diện... Chúng ta cần chia sẻ các cơ hội phát triển và cùng nhau đối phó thách thức... Chúng ta cần tìm kiểm nền tảng chung trong khi giải quyết các bất đồng và tăng cường an ninh chung... Chúng ta cần bảo vệ lợi ích chung và thúc đẩy hợp tác khu vực", ông Hồ Cẩm Đào phát biểu.
Theo "chính sách láng giềng tốt", Bắc Kinh vốn dĩ coi việc cải thiện quan hệ với ASEAN là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Trung Quốc đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với 10 nước thành viên ASEAN kể từ 2003, với một số thành viên trong khối...
Mặc dù Trung Quốc đã nỗ lực để cải thiện quan hệ với láng giềng, đặc biệt là các nước ở Đông Nam Á, nhưng dường như còn quá nhiều nghi ngại tồn tại. Dường như là Trung Quốc mở rộgn ảnh hưởng thông qua tăng trưởng kinh tế và quân sự thì càng khiến láng giềng càng không thích Trung Quốc hơn nữa. Tại sao Trung Quốc lại thất bại trong cuộc "ve vãn" các nước. Ở đây có mọt số lý do: một số bắt nguồn từ nỗi quan ngại của các láng giềng, số khác lại từ chính Trung Quốc.
Đầu tiên, có những lý do lịch sử. Trong suốt thời kỳ cổ xưa, một số quốc gia châu Á chịu ảnh hưởng của Nho giáo, sẽ phải cống nạp cho các vương triều của Trung Quốc bao gồm Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản bây giờ. Những nước Đông Nam Á khác không chịu ảnh hưởng (gồm Philippines, Indonesia, Campuchia và Thái Lan ngày nay) cũng có ghi nhận phải cống phẩm cho Trung Quốc theo yêu cầu từ các vị vua của họ. Ngoài ra còn có những ràng buộc gần cận hơn khi một số quốc gia Đông Nam Á dưới sự đe doạ "xuất khẩu cách mạng" của Trung Quốc vào những năm 1950-1960, rồi sự kiện năm 1979.
Nhưng có lẽ nhân tố lớn nhất đang phá huỷ lòng tin lẫn nhau và làm xói mòn nỗ lực xây dựng các quan hệ đối tác là tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc có tranh chấp lãnh hải hoặc các đảo ở Biển Đông hay Hoa Đông với Việt Nam, Brunei, Malaysia, Philippines và Nhật Bản.
Với nhiều quốc gia Đông và Đông Nam Á, tăng trưởng kinh tế, quân sự và ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc ở châu Á nhắc nhở họ về một chế độ triều cống trong lịch sử, về sự tồn tại của các chư hầu quanh Trung Quốc xưa từng thừa nhận ưu thế của Trung Quốc trong khu vực. Lo ngại về sự trở lại của một chế độ triều cống kiểu mới có lẽ vẫn là một rào cản tâm lý với một số quốc gia để khiến họ có thể tin tưởng vào chính sách láng giềng tốt của Bắc Kinh.
Quan hệ không tốt giữa Trung Quốc và láng giềng một phần còn là bởi những điều kiện nội tại của Trung Quốc, về quan niệm giá trị dân chủ giữa các nước trong khu vực. Dù Trung Quốc cam kết về một sự trỗi dậy hoà bình, dù từ lâu đã từ bỏ "xuất khẩu cách mạng", nhưng họ lại chưa làm rõ mục tiêu chiến lược của việc hiện đại hoá quân sự. Với nhiều nước láng giềng, một siêu cường như vậy mà thiếu tuyên bố rõ ràng là đáng lo ngại.
Lẽ tự nhiên với kích cỡ và dân số Trung Quốc cũng như ảnh hưởng văn hoá sâu rộng, sức mạnh kinh tế và quân sự thì những quốc gia châu Á tương đối nhỏ và yếu hơn sẽ hoài nghi và lo ngại về những gì "con rồng lớn" sẽ nắm giữ.
Để giải quyết việc này, ngoài những cam kết bằng lời nói, Trung Quốc phải có những nỗ lực thực tế để thể hiện hiện rằng, họ sẽ đóng góp vào lợi ích và ổn định khu vực khi cần thiết. Ví dụ, trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính hiện tại, Trung Quốc nên giữ vai trò dẫn dắt để cùng xây dựng một hệ thống tài chính khu vực mạnh mẽ nhằm ổn định thị trường tài chính khu vực.
Trung Quốc nên tôn trọng các cam kết gia tăng hoà bình bằng những biện pháp cụ thể để góp phần đảm bảo an ninh và hoà bình khu vực. Cũng như ở Trung Quốc, quan điểm dân tộc chủ nghĩa đang gia tăng khắp châu Á, thúc giục các chính phủ đưa ra các bước đi chính sách mạo hiểm và thách thức Trung Quốc. Không cần phải nói rằng, căng thẳng chính trị hiện tại của châu Á, chạy đua vũ trang, tranh chấp lâu dài không phải là chọn lựa lý tưởng cho khu vực. Vì mối quan hệ phức tạp giữa các quốc gia, Trung Quốc và những nước láng giềng cần dành thêm nhiều thời gian và nỗ lực để xây dựng các quan hệ đối tác đích thực.
Trung Quốc nên hành động như một người chơi có trách nhiệm luôn tuân thủ những nguyên tắc chung; họ nên có một chiến lược châu Á rõ ràng, thực thi và thực tế. Theo chính sách này, Bắc Kinh nên hoạt động như một cường quốc kinh tế ổn định, nó đòi hỏi Trung Quốc sáng tạo hơn trong các lĩnh vực tài chính quốc tế, và can đảm hơn trong sáng kiến cải tổ các hệ thống tài chính hiện hành.
Trung Quốc cũng nên góp phần đảm bảo an ninh khu vực với khả năng quân sự đang gia tăng của mình. Bắc Kinh nên rõ ràng hơn so với láng giềng trong việc sử dụng quân sự để duy trì ổn định khu vực thông qua chống hải tặc, khủng bố và tội phạm quốc tế khác ở Thái Bình Dương. Thay vì phô diễn sức mạnh quân sự trong tranh chấp lãnh thổ, Trung Quốc nên khuyến khích sự hội nhập chính trị, kinh tế và văn hoá ở Đông cũng như Đông Nam Á.
Sau tất cả, Trung Quốc nên định hình lại chiến lược châu Á của mình với mục tiêu hoạt động như một lực lượng ổn định, trong khi vẫn duy trì chiến lược để giữ sự cân bằng với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này.
Trung Quốc phải thể hiện thiện chí và sự chân thành của mình bằng lời nói và hành động. Chỉ bằng cách này, thì sự trỗi dậy hoà bình của họ mới không đáng báo động và Trung Quốc mới được các láng giềng châu Á coi là một người bạn.
Chiến lược châu Á của Trung Quốc nên đi xa hơn việc chỉ là tìm kiếm những lợi ích kinh tế chung và bao gồm trách nhiệm góp phần duy trì ổn định tài chính, hàng hải và chính trị.
*Jian Junbo, nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Phúc Đán, Thượng Hải, Trung Quốc.


Vì sao Trung Quốc có thái độ nước đôi?
TT - Trước những căng thẳng liên tiếp diễn ra trong nhiều tháng qua trên biển Đông, Valérie Niquet, chuyên gia về châu Á của Tổ chức nghiên cứu chiến lược Pháp, thử giải mã thái độ nước đôi (vừa kiềm chế vừa khẳng định sức mạnh) của Trung Quốc. 

Tàu sân bay Thi Lang của Trung Quốc - Ảnh: Reuters
Về những yêu sách đòi chủ quyền
Trung Quốc đòi chủ quyền trên toàn bộ biển Đông, do vậy là vượt lên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đường chủ quyền mà Bắc Kinh nêu ra là không có cơ sở, nhưng lại đã xuất hiện trên nhiều bản đồ mà Trung Quốc công bố. Nó kéo dài đến tận biên giới Indonesia. Như vậy, nước này cũng đang phải đối mặt với tham vọng của Trung Quốc tương tự như Brunei.
Đằng sau khía cạnh địa lý này cần phải thấy rằng đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc gắn liền, và ngày càng trở nên quyết liệt, với việc Trung Quốc tăng cường các khả năng quân sự của họ. Trước đây, Bắc Kinh quả là không có khả năng có mặt trên biển Đông, do vậy những yêu sách đòi chủ quyền của họ chỉ là trên lý thuyết. Còn nay, Trung Quốc đã có những phương tiện về hàng hải. Trong thời gian dài, lý lẽ mà Trung Quốc nêu ra để giải thích sự gắn kết của họ với vùng lãnh thổ rộng lớn này là kinh tế, do nơi đây có nguồn tài nguyên về dầu khí cần thiết cho Trung Quốc.
Còn nay, Bắc Kinh tìm cách bảo vệ những con đường lưu thông thương mại của mình hơn. Thật vậy, biển Đông giữ một vai trò chiến lược cực kỳ quan trọng, bởi trong cái nhìn của Trung Quốc và cả của Nhật, Hàn Quốc, đây là khu vực trao đổi thương mại với các nước vùng Vịnh, châu Phi và Liên minh châu Âu. Cũng còn một khía cạnh khác mà theo tôi, còn quan trọng hơn nhiều: đó là sự khẳng định của chủ nghĩa quốc gia. Với cuộc khủng hoảng kinh tế, mà như người ta ghi nhận từ nhiều tháng qua, những tuyên bố mang nặng chủ nghĩa quốc gia này đang ngày càng mạnh mẽ, không chỉ đối với các nước láng giềng mà còn cả với Mỹ.
Về thái độ nước đôi
Tôi không chắc là đang có sự bất đồng thật sự về mục tiêu giữa giới lãnh đạo quân sự và dân sự ở Bắc Kinh. Tôi cho rằng ý muốn bao trùm của Bắc Kinh là khẳng định sức mạnh của mình, bao gồm cả việc sử dụng các phương tiện quân sự. Đơn giản là giới lãnh đạo Bắc Kinh đều hiểu rõ những hạn chế đối với sức mạnh của Trung Quốc và đối với việc khẳng định sức mạnh này, nhất là ở châu Á.
Quả thật, những khả năng của Trung Quốc còn nhỏ bé, cho dù mới đây ngày 10-8 Trung Quốc đã thử nghiệm tàu sân bay, một tàu sân bay mà không có máy bay. Trung Quốc đang theo đuổi một thái độ nước đôi. Một mặt là theo đuổi chính sách gây căng thẳng với mục đích gây lo ngại cho các nước láng giềng, mà vô hình trung lại gây lo ngại cho những ai ở Mỹ muốn ủng hộ một chính sách hòa dịu.
Mặt khác, Trung Quốc lại tìm cách duy trì những cơ hội, nhất là những cơ hội thương mại với ASEAN. Nhất là Bắc Kinh muốn tránh lặp lại kịch bản năm 2010 khi tất cả các nước khác trong khu vực đều tranh thủ sự có mặt của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Hà Nội để cùng lên tiếng ủng hộ giải pháp của Mỹ về việc duy trì những con đường thông thương hàng hải tự do trên biển Đông. Nói chung, giới lãnh đạo Trung Quốc đang cố gắng để đừng đi quá xa, cho dù người ta có thể quan sát thấy xu hướng gây căng thẳng vẫn luôn hiển hiện rất rõ.
Về mối lo ngại nhất
Lúc này, các nước trong khu vực đều có xu hướng tự trang bị vũ trang. Nhưng điều này không làm Bắc Kinh quan ngại bởi xét về mặt quân sự, Trung Quốc hiện mạnh hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Trên thực tế, mối lo ngại chính của Bắc Kinh là Mỹ. Cho đến gần đây, và tôi cho rằng điều này có thể giải thích được phần nào những căng thẳng hiện nay, Trung Quốc vẫn cho rằng do đang bị sa lầy ở Iraq và Afghanistan, Mỹ sẽ không có đủ phương tiện để can thiệp vào khu vực. Thế nhưng, cách “đọc” tình hình sai lầm ở tầm chiến lược này đang phản lại Trung Quốc khi Bắc Kinh bực bội nhận ra Mỹ không chỉ có khả năng hiện diện mà còn không thiếu cơ hội để tái khẳng định ý muốn quay trở lại châu Á.
Về diễn biến tình hình sắp tới
Trong những năm tới, tình hình tùy thuộc diễn biến bên trong của Trung Quốc và việc nước này sẽ cải cách (hay không cải cách) ra sao. Có thể hình dung một Trung Quốc dân chủ hơn sẽ có khuynh hướng ít dựa vào chủ nghĩa quốc gia cực đoan hơn hiện nay.
TRUNG NGUYỄN (Theo Le Monde)
Tàu ngầm Giao Long được hạ thủy tại Giang Tô ngày 1-7 - Ảnh: Getty Images
Trung Quốc không từ bỏ ý định sử dụng vũ lực trên biển
“Trung Quốc sẽ giải quyết các tranh chấp trên biển Nam Hải (biển Đông) theo hướng ngoại giao và hòa bình nhưng kiên quyết không từ bỏ ý định sử dụng vũ lực” - Thời báo Hoàn Cầu ngày 22-8 dẫn lời ông Trương Triệu Trung, thiếu tướng hải quân, nhà nghiên cứu quân sự Trung Quốc.
Trong hội thảo mang chủ đề “Tiến ra biển - biển, quyền trên biển, linh hồn biển” diễn ra vào ngày 20-8 tại Quảng Châu, Trương Triệu Trung cho rằng Trung Quốc tốt nhất nên sở hữu số tàu sân bay tương đương với Mỹ - 11 tàu, hoặc chí ít cũng cần 3 tàu sân bay để kiểm soát các vấn đề về an ninh trên biển.

Mỹ trước mối đe doạ ngày một lớn từ không quân TQ
Hai máy bay chiến đấu Su-27 hiện đại của Trung Quốc gần đây đã đuổi theo một máy bay trinh sát Mỹ que Eo biển Đài Loan.

Các nhà quan sát gần đây tập trung chủ yếu vào việc Trung Quốc hạ thuỷ tàu sân bay đầu tiên. Tuy nhiên, những nhà hoạch định quốc phòng Mỹ và châu Á cần thận trọng để không bỏ qua một khía cạnh khác trong sức mạnh quân sự không ngừng gia tăng của Trung Quốc.

Một ngày nào đó, lực lượng không quân Trung Quốc có thể đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thách thức sự hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Cùng lúc đó, việc cắt giảm chi tiêu trong không quân Mỹ có thể làm giảm bớt khả năng của họ khi bảo vệ các lợi ích của nước này.

Như Trung tâm tình báo thuộc Không quân Mỹ đánh giá trong một báo cáo năm ngoái, lực lượng không quân quân đội Trung Quốc đã "tự chuyển đổi từ một tổ chức trang bị, huấn luyện nghèo nàn trở thành một lực lượng chiến đấu ngày càng có khả năng. Sự thay đổi mạnh mẽ đã diễn ra và tiếp tục diễn ra trong các lĩnh vực nhân sự, đào tạo, huấn luyện, trang thiết bị...".

Một cuộc diễn tập của không quân Trung Quốc, Ảnh: THX

Hiện tại, không quân Trung Quốc vẫn tụt hậu sau Mỹ nhiều năm trong kinh nghiệm, đào tạo và kế hoạch hoạt động. Tuy nhiên, họ đang tăng tốc để có thể bắt kịp.

Các nhà phân tích không quân Trung Quốc cảnh báo phản đối việc chỉ tập trung vào số lượng máy bay. Dẫn đầu trong sức mạnh không quân Trung Quốc là các máy bay chiến đấu hiện đại của Nga Su-27/30 với 150 chiếc, tiếp theo là hơn 100 máy bay J-11 nội địa trên cơ sở mô phỏng Su 27 và gần 200 máy bay đa chức năng J-10 có cả khả năng chiến đấu trên không và tấn công mặt đất.

Su-27/30 có thể sánh ngang với bất kỳ máy bay chiến đấu nào của Mỹ, ngoại trừ máy bay tàng hình F-22 và Trung Quốc có kế hoạch tăng thêm gần 100 máy bay liên quan tới J-11. Nhìn chung, không quân Trung Quốc có hơn 1.600 máy bay chiến đấu, và không tính gần 300 máy bay chếin đấu của hải quân. Hải quân Trung Quốc cũng sở hữu một đơn vị máy bay chiến đấu riêng, giờ đây đang vận hành các máy bay chiến đấu hiện đại và tăng tốc đào tạo phi công để sẵn sàng hoạt động trên tàu sân bay.

Tìm vũ khí mới

Không quân Trung Quốc còn hướng tới việc tìm kiếm những thế hệ vũ khí mới. Đầu năm nay, họ đã bay thử loại máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ năm đầu tiên gọi là J-20, động thái phô diễn ấy xảy ra vào lúc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi ấy là Robert Gates đang có chuyến viếng thăm Trung Quốc để hàn gắn quan hệ quân sự.

Trong khi J-20 ít nhất phải mất cả thập niên nữa mới đi vào hoạt động, thì ông Gates vẫn buộc phải rút ngắn dự đoán của mình về thời điểm các phi công Mỹ sẽ đối mặt với những máy bay tàng hình Trung Quốc. Khi các phi công Trung Quốc bắt đầu thực hiện các hoạt động phối hợp, diễn tập ban đêm, những sứ mệnh tầm xa từ hàng chục căn cứ ở các khu vực duyên hải, thì sự lo ngại về ảnh hưởng của không quân Trung Quốc khắp vùng đông châu Á đã bắt đầu hiện diện.

Trung Quốc đã đi xa hơn việc đơn giản là mua thêm nhiều máy bay và cải thiện quá trình đào tạo. Trong năm 2004, họ đã có chiến lược không quân cụ thể đầu tiên, tập trung vào “tương tác các hoạt động không gian và vũ trụ, cả phòng thủ và tấn công”. Sử dụng chiến tranh ảo, các tài sản không gian và chiến lược tấn công nhanh chóng, không quân Trung Quốc đang nỗ lực trở thành một lực lượng không gian vũ trụ công nghệ cao, tốc độ nhanh.

Không có gì quá bất ngờ, học thuyết này được thiết kế chủ yếu để phủ nhận sức mạnh của các lực lượng hải quân, không quân Mỹ trong khu vực. Hơn thế nữa, lãnh đạo quân sự Trung Quốc còn đang xây dựng khả năng tên lửa để phá huỷ các căn cứ dễ tổn thương ở Nhật Bản, Guam và những nơi khác.

Tất cả những tiến triển trên có thể đang khuyến khích lực lượng không quân Trung Quốc. Tháng 6 này, hai chiếc Su-27 đã đuổi theo một máy bay trinh sát Mỹ qua Eo biển Đài Loan. Theo thông tin báo chí, một trong các máy bay chiến đấu Trung Quốc đã vượt qua đường trung tuyến của eo biển.

Đầu năm nay, Manila đã phàn nàn rằng, các máy bay Trung Quốc xâm nhập vào không phận Philippines khi hai bên xảy ra tranh chấp chủ quyền hàng hải ở Biển Đông. Cả Washington và Bắc Kinh cũng khó có thể quên sự cố tháng 3/2001 khi một phi công Trung Quốc lái máy bay va chạm với máy bay trinh sát Mỹ EP-3, viên phi công tử nạn còn máy bay Mỹ phải hạ cánh khẩn cấp xuống đảo Hải Nam, phi hành đoàn bị bắt giữ trong 11 ngày.

Mỹ đối mặt thế nào?

Đối mặt với sự trỗi dậy này của Trung Quốc, Washington cần làm nhiều hơn để duy trì ưu thế trên không. Trong bất kỳ cuộc xung đột nào với Trung Quốc, Mỹ sẽ phụ thuộc vào sức mạnh không quân. Tuy nhiên, sự “lão hoá” của F-15 và F-16 ngày càng tăng sẽ không còn phù hợp với những “đối tác” Trung Quốc hiện đại hơn, và ngay cả những kỹ năng vượt trội của phi công Mỹ cũng khó có thể thay đổi những chiếc máy bay đã lỗi thời.

Việc Trung Quốc phát triển tên lửa diệt tàu sân bay có nghĩa là, sức mạnh không quân hải quân của Mỹ có thể bị đẩy xa hơn ngoài Thái Bình Dương. Quyết định vội vàng ngừng sản xuất F-22 đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ bị hạn chế đáng kể số lượng loại máy bay có thể đảm bảo chỉ huy những vùng trời, trong khi F-35 ngày càng trở nên đắt đỏ hơn và tiến độ phát triển vẫn còn chậm.

Một số lượng lớn máy bay tiếp dầu, hộ tống của không quân Mỹ sẽ là cần thiết để duy trì sức mạnh của máy bay chiến đấu Mỹ trong cuộc chiến. Hơn thế nữa, việc củng cố các căn cứ chính tại Kadena ở Okinawa và Andersen ở Guam là điều cần thiết để đảm bảo cho các lực lượng Mỹ có thể hạn chế các hành vi thù địch ngay từ sớm.

Với sự phân tán của các căn cứ Trung Quốc và hạm đội máy bay ném bom của họ, Mỹ cần phải phát triển một loại máy bay ném bom tầm xa đáng tin cậy, như là cách tăng cường kiểm soát trong bất kỳ cuộc xung đột nào với Trung Quốc. Nếu chỉ trông chờ vào tên lửa tấn công mặt đất hoặc trên biển cho những cuộc chiến trên đất liền có thể gây nên nhiều bất ổn.

Cuối cùng, Mỹ cần đảm bảo rằng, các đồng minh của họ cũng tăng cường những khả năng không quân. Không có những biện pháp trên, các vùng trời của Đông Á một ngày nào đó có thể trở nên hỗn loạn như những vùng biển phía dưới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Có ý kiến gì không?