Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

Châu Á trở lại trung tâm bàn cờ thế giới

Sự trở lại của châu Á ở vị trí trung tâm các vấn đề thế giới là sự thay đổi quyền lực rất lớn của thế kỷ 21. Trong năm 1750, châu Á chiếm khoảng 3/5 dân số thế giới và 3/5 sản lượng toàn cầu. Năm 1900, sau cuộc Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu và Mỹ, thị phần của châu Á trong sản lượng toàn cầu giảm xuống còn 1/5. Vào năm 2050, châu Á sẽ trở lại đúng con đường nơi nó đã đi 300 năm trước.
Tác giả bài viết là Giáo sư Joseph Nye. 


Ông Obama là Tổng thống Mỹ đầu tiên tham dự hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Ảnh: Reuters

Tuy nhiên, thay vì để mắt trên bàn cờ toàn cầu, Mỹ lại phí cả thập niên đầu tiên của thế kỷ này khi sa lầy vào cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan. Giờ đây, như Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đề cập trong bài phát biểu gần đây rằng, chính sách đối ngoại Mỹ sẽ "xoay trục" hướng về Đông Á.
Quyết định của Tổng thống Barack Obama nhằm triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ tới một căn cứ ở phía bắc Australia là dấu hiệu sớm cho trục xoay ấy. Hơn nữa, tại diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Hawaii, ông cũng đã thúc đẩy việc thiết lập mới những cuộc hội đàm thương mại gọi là Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Cả hai sự kiện đã củng cố thông điệp của Obama với khu vực này rằng, Mỹ có ý định vẫn là một cường quốc có sự can dự.
Trục xoay về phía châu Á không có nghĩa là các phần khác trên thế giới không còn quan trọng. Ngược lại, ví dụ như châu Âu có nền kinh tế lớn hơn và giàu có hơn Trung Quốc. Nhưng, như cố vấn aninh quốc gia của ông Obama - Tom Donilon - gần đây giải thích, chính sách đối ngoại Mỹ trong những năm qua đã bị dàn trải bởi các cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan, quan tâm tới nguy cơ khủng bố và phổ biến hạt nhân tại Iran hay Triều Tiên và mùa xuân Ảrập diễn ra gần đây. Chuyến công du hồi tháng 11 của Obama tới châu Á là một nỗ lực để sắp xếp các ưu tiên chính sách đối ngoại Mỹ với tầm quan trọng lâu dài của khu vực.
Donilon có nói: “Bằng cách nâng tầm khu vực năng động này trở thành một trong các ưu tiên chiến lược hàng đầu của chúng tôi, Obama đang thể hiện quyết tâm của ông trong việc không để cho con tàu của chúng tôi bị chệch hướng bởi các cuộc khủng hoảng hiện tại". Washington cũng tuyên bố rằng, bất kể xảy ra tranh luận nào về ngân sách quốc phòng, Mỹ vẫn đảm bảo sẽ bảo vệ các khả năng cần thiết để duy trì sự hiện diện trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Chuyến công du tháng 11 của Obama cũng là một thông điệp gửi tới Trung Quốc. Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, nhiều người Trung Quốc bày tỏ niềm tin sai lầm rằng, Mỹ đang trong giai đoạn tụt dốc và Trung Quốc cần quả quyết hơn - đặc biệt là trong theo đuổi tuyên bố chủ quyền hàng hải tại Biển Đông - khi thể hiện với các đồng minh và bè bạn của Mỹ. Trong suốt năm đầu tiên Obama nhậm chức, chính quyền của ông đặt ưu tiên cao cho sự hợp tác với Trung Quốc, nhưng các nhà lãnh đạo Bắc Kinh dường như hiểu sai chính sách của Mỹ là một dấu hiệu của sự yếu đuối.
Washington đã đưa ra tuyên bố cứng rắn hơn khi bà Clinton phát biểu về vấn đề Biển Đông tại một hội nghị khu vực hồi tháng 7/2010. Chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tới Washington tháng 1 năm nay rất thành công, nhưng nhiều nhà bình luận Trung Quốc phàn nàn rằng, Mỹ đang cố gắng "kiềm chế" Trung Quốc và ngăn chặn sự gia tăng hòa bình của họ.
Sự lo lắng của Trung Quốc về cái họ nghĩ là chính sách ngăn chặn từ Mỹ trở lại khi bà Clinton khẳng định rằng, vấn đề tranh chấp hàng hải của nước này với các nước láng giềng sẽ có mặt trong chương trình nghị sự tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á năm tới ở Manila - hội nghị sẽ có sự tham dự của ông Obama, Hồ Cẩm Đào và những nhà lãnh đạo khác trong khu vực.
Tuy nhiên, chính sách của Mỹ với Trung Quốc khác hẳn kiểu chính sách với khối Xô Viết thời Chiến tranh lạnh. Trong khi Mỹ và Liên Xô hạn chế thương mại và tiếp xúc xã hội, thì hiện Mỹ là thị trường nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc, hoan nghênh và tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, mở cửa các trường đại học của mình cho khoảng 125.000 sinh viên Trung Quốc mỗi năm. Nếu chính sách hiện nay của Mỹ với Trung Quốc bị cho là kiểu ngăn chặn thời Chiến tranh Lạnh thì dường như nó đang ấm áp bất thường.
Đánh giá Chiến lược Đông Á của Lầu Năm Góc - một chỉ dẫn về chính sách Mỹ kể từ 1995 - kêu gọi Trung Quốc tương tác vào hệ thống quốc tế thông qua thương mại và các chương trình trao đổi. Mặc dù Mỹ đang tăng cường quan hệ với các đồng minh, nhất là Nhật Bản thì điều này không có nghĩa là sự ngăn chặn. Sau tất cả, lãnh đạo Trung Quốc không thể dự đoán được những ý định của người kế nhiệm. Mỹ thì đặt cược rằng họ sẽ theo con đường hòa bình, nhưng không ai biết chắc điều đó.
Lực lượng quân sự Mỹ không mong muốn "kiềm chế" Trung Quốc theo kiểu Chiến tranh Lạnh, nhưng họ có thể giúp định hình môi trường trong đó các nhà lãnh đạo tương lai Trung Quốc sẽ đưa ra chọn lựa của mình. Nếu Trung Quốc trở nên gây hấn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thì các quốc gia khác sẽ cùng với Mỹ đối phó lại điều đó.
Nhưng dù là hai bên ở vị trí cạnh tranh thế nào, thì hợp tác Trung - Mỹ trong các vấn đề như thương mại, ổn định tài chính, an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu và đối phó thảm họa sẽ đều có lợi cho hai bên. Phần còn lại của khu vực cũng được hưởng lợi.
Và, trục xoay của chính quyền Obama về hướng châu Á sẽ là tín hiệu công nhận tiềm năng to lớn của khu vực, chứ không phải lời thúc giục để ngăn chặn bất kỳ ai.
* Tác giả: Giáo sư Joseph Nye Jr là nhà tư tưởng đối ngoại hàng đầu nước Mỹ, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, tác giả học thuyết "sức mạnh mềm" và "sức mạnh thông minh". Ông là chuyên gia xuất sắc hàng đầu trên nhiều lĩnh vực trong quan hệ quốc tế: quốc phòng, ngoại giao, chính sách đối ngoại, châu Á, châu Âu, chủ nghĩa khủng bố, vũ khí hạt nhân và Liên hợp quốc.

Khi Ấn Độ trở thành siêu cường

Sự ra đời của một siêu cường mới có thể trở thành sự kiện đáng ngạc nhiên và gây xáo trộn trật tự toàn cầu. Nhưng bên cạnh mối lo ngại về quyền lực, đôi khi những điều tốt đẹp sẽ xuất hiện.
Kolkata (tên trước đây: Calcutta) là thủ phủ bang Tây Bengal, Ấn Độ. Với dân số 11 triệu người, được biết tới như trung tâm thương mại - tài chính của Đông Ấn Độ, Kolkata phản chiếu những mặt tương phản nhất trong đời sống nước này. 
Gần sân bay quốc tế, tại quận Salt Lake, những tòa nhà và văn phòng IT mới mọc lên nhan nhản. Tại khách sạn Oberoi ở trung tâm thành phố, hương thơm ngọt ngào, sự thanh lịch từ thời Kolkata còn là thuộc địa Anh vẫn hiện hữu.

Đội tàu chiến của Hải quân Ấn Độ. Ảnh: Indian Navy

Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ qua, kinh tế Kolkata không bùng nổ như ở các thành phố khác của Ấn Độ. Chỉ cách khách sạn Oberoi vài tòa nhà, nhiều gia đình phải sống trong các lều tạm bợ trên vỉa hè, các bà mẹ tắm gội cho con trước thanh thiên bạch nhật. Người vô gia cư đói khát ngủ cạnh những hàng lan can trước công viên. Vào ngày cuối tuần, đàn ông và trẻ con chơi cricket khắp mọi nơi.
'Con voi' đang chuyển động
Nhưng bạn chớ bị đánh lừa bởi vẻ ngoài lộn xộn của Ấn Độ. "Con voi" này đang chuyển động. Thậm chí không cần cải tổ kinh tế quyết liệt hơn, trong vòng hai thập kỷ tới, kinh tế Ấn Độ nhiều khả năng vẫn có thể tăng trưởng mỗi năm tới 7 - 8%. Lúc đó, Ấn Độ sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephen Smith cho rằng trong thế kỷ 21, sẽ có ba siêu cường là Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ.
Tuần qua, ông M.K Narayanan - thủ hiến bang Tây Bengal, cựu cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ - đã tới khai mạc hội thảo về Thế kỷ Á châu do Viện Australia - Ấn Độ thuộc Đại học Melbourne bảo trợ. Tại đây, ông Narayanan trấn an rằng Australia không có gì phải lo ngại về sự trỗi dậy của Ấn Độ. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng bất cứ sự trỗi dậy nào cũng khó mà phẳng lặng.
Mọi người đều nghĩ về một cuộc cạnh tranh chiến lược trong những năm tới. Siêu cường cũ sẽ khó điều tiết để thích nghi với sự trỗi dậy của siêu cường mới. Điều này có nghĩa là Mỹ khó mà thích nghi được với Trung Quốc. Nhưng xét về sự căng thẳng và nguy cơ xung đột, dường như Trung Quốc sẽ khó hòa giải hơn trước sự trỗi dậy của Ấn Độ. 
Thái độ của Ấn Độ đối với Trung Quốc phức tạp một cách khác thường. Có hai nét đặc trưng nổi bật trong quan hệ hai nước. Một là việc Trung Quốc và Ấn Độ đang có thương mại bùng nổ, với trị giá lên tới hơn 60 tỷ USD năm 2010. Mỗi bên đều hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế của bên kia. Quan trọng hơn, không quốc gia nào tại châu Á có sự cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc một cách tự nhiên và rõ ràng như Ấn Độ. 
Trung Quốc và Ấn Độ khác nhau về hình mẫu kinh tế. Những người ủng hộ hình mẫu Trung Quốc cho rằng sự mau lẹ trong quyết sách của chính quyền đã tạo lợi thế cho nền kinh tế Trung Quốc. Trong khi đó, phe ủng hộ hình mẫu Ấn Độ nói rằng cấu trúc dân số trẻ hơn của Ấn Độ sẽ giúp nước này phát triển kinh tế bền vững, lâu dài hơn Trung Quốc.
Nhưng dường như mọi người chưa quan tâm lắm tới sự va chạm địa chiến lược và quyền lực rắn giữa hai "gã khổng lồ" đang vươn mình ở châu Á. Theo quan điểm của New Delhi, trong mấy thập kỷ qua, Bắc Kinh đã có hàng loạt động thái để kìm giữ Ấn Độ. Trả lời phỏng vấn tại hội thảo ở Kolkata, ông Gopalaswamy Parthasarathy - cựu Đại sứ Ấn Độ tại Australia và Pakistan, một giáo sư nghiên cứu chính sách chiến lược - cho rằng trong bốn thập kỷ qua, Trung Quốc đã hỗ trợ công nghệ hạt nhân cho Pakistan. Theo ông Parthasarathy, các hành động của Trung Quốc "rõ ràng nhằm vào Ấn Độ" và Pakistan là công cụ kiềm chế Ấn Độ của Trung Quốc.
Cuộc cạnh tranh chiến lược Trung - Ấn
Không phải người Ấn nào cũng nói về Trung Quốc thẳng thắn như ông Parthasarathy. Nhưng hầu hết đều tin rằng Bắc Kinh có một thỏa thuận lớn với Islamabad để phân tán sức mạnh của New Delhi. Cuộc xung đột chiến lược giữa Ấn Độ và Trung Quốc là chủ đề của một cuốn sách mới có tiêu đề "Trung Quốc và Ấn Độ - Những đối thủ quyền lực". Mohan Malik - một học giả thuộc nhóm chuyên gia ở Hawaii, tác giả cuốn sách - chỉ ra cách Trung Quốc bao vây Ấn Độ với các tài sản chiến lược. 
Từ năm 2006, Bắc Kinh làm nóng vấn đề tranh chấp lãnh thổ với New Delhi, tuyên bố chủ quyền ở bang Aranachal Pradesh ở phía đông bắc Ấn Độ. Bắc Kinh tiếp tục kiểm soát một phần Kashmir - nơi Ấn Độ, Trung Quốc và Pakistan lấn cấn từ nhiều năm qua. Theo ông Malik, những năm gần đây, lực lượng tuần tra Trung Quốc đã thâm nhập xuyên biên giới vào lãnh thổ Ấn Độ. Các nhà phân tích chiến lược Ấn Độ coi việc Trung Quốc sử dụng lực lượng tuần tra là tín hiệu bày tỏ sự không hài lòng với New Delhi. Tuy nhiên, động thái này là một cuộc chơi nguy hiểm. Ấn Độ đã phản ứng bằng cách triển khai hàng ngàn lính cùng máy bay chiến đấu tối tân Sukhoi ở những khu vực giáp biên giới với Trung Quốc.
Cuốn sách cho rằng chiến lược của Trung Quốc hướng về Ấn Độ với ba mũi nhọn. Thứ nhất là bao vây, với việc tăng cường hiện diện chiến lược của Trung Quốc ở Pakistan, Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Myanmar và các quốc đảo Ấn Độ Dương. Thứ hai là tạo ảnh hưởng, với việc hội nhập tất cả các nền kinh tế láng giềng của Ấn Độ vào nền kinh tế Trung Quốc. Thứ ba là gây lúng túng, theo đó khai thác những mối lo ngại an ninh phức tạp cũng như các mâu thuẫn bên trong Ấn Độ.
Ấn Độ không thờ ơ trước ý đồ của Trung Quốc. New Delhi tiếp tục theo đuổi quan hệ quân sự chặt chẽ với Washington. Hải quân Ấn Độ gần đây đã hiện diện ở khu vực Biển Đông. Ấn Độ xích gần hơn với các nước láng giềng của Trung Quốc. Khi kinh tế phát triển, Ấn Độ có các lựa chọn mang tính chiến lược. Vào thời điểm thử vũ khí hạt nhân năm 1998, Ấn Độ coi Trung Quốc là mối đe dọa hạt nhân đáng lo ngại nhất.
Tất cả những điều kể trên có ý nghĩa gì cho Australia - một quốc gia nằm giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương? Canberra hoàn toàn không muốn nhảy vào bất cứ cuộc tranh cãi nào giữa New Delhi và Bắc Kinh. Nhưng Bắc Kinh lại ngờ vực về sự thân thiết chiến lược đang ngày một gia tăng giữa Canberra và New Delhi. Bắc Kinh từng cố ngăn việc Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân chấp nhận thỏa thuận hạt nhân Mỹ - Ấn. Bắc Kinh cũng không hài lòng khi Australia quyết định bán uranium cho Ấn Độ. Trung Quốc phản đối bất cứ quyền lực "bên ngoài" nào can dự vào an ninh châu Á.
Trong khi tiếp tục theo đuổi quan hệ mang tính xây dựng với Bắc Kinh, Canberra chắc chắn không ngại ngùng đẩy mạnh quan hệ với Mỹ. Australia cũng sẽ từng bước xây dựng quan hệ chiến lược với Ấn Độ. Tuần qua, Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephen Smith đã có chuyến thăm quan trọng tới Ấn Độ. Trên tờ The Australian, cây bút bình luận chính trị đối ngoại Greg Sheridan cho biết Bộ trưởng Stephen Smith đã nói với ông rằng: "Điều mà hai bên thống nhất là sẽ tăng cường về thực chất hợp tác Ấn - Australia trong lĩnh vực quân sự, bắt đầu với việc hợp tác hàng hải và hải quân. Có thể hiểu đó là một tiến trình từng bước".
Không thể tránh khỏi cuộc cạnh tranh chiến lược đầy khó chịu giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Nhưng ít nhất, cuộc cạnh tranh này cũng mang tới sự sôi động và trở thành trung tâm của các mối quan hệ quốc tế trong thế kỷ 21.

Hổ trong sân Rồng

Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS)năm nay ở Bali, Indonesia ngày 18-19/11 đã hoan nghênh hai thành viên mới - Mỹ và Nga. Các thành viên mới này đã làm cho cuộc gặp của các đối tác đối thoại trở nên phức tạp hơn, khi không cần để ý tới bối cảnh địa lý trong tiêu đề của nó.
EAS đã có nhân tố ngoài khu vực kể từ khi khởi đầu năm 2005 ở Kuala Lumpur với sự hiện diện của Australia, New Zealand và Ấn Độ và gây ra nhiều tranh cãi. Chủ trì và khởi xướng dự án này, Malaysia, đã phản đối sự hiện diện của hai quốc gia Thái Bình Dương khi cho rằng xét về mặt dân tộc họ không phải là châu Á trong khi Trung Quốc thì không tán thành sự có mặt của Ấn Độ, một quốc gia Nam Á có thể đe doạ vị trí vượt trội của mình.
Trong số các cường quốc không phải ở Đông Á giờ đây nắm ghế chủ chốt tại EAS, Ấn Độ có lẽ đối mặt với những thách thức lớn nhất trong việc minh chứng ảnh hưởng của mình với chương trình nghị sự ngoại giao của khu vực. Tâm điểm trên các phương tiện truyền thông Ấn Độ thời điểm Thủ tướng Manmohan Singh công du Bali phần lớn là cuộc gặp song phương mà ông lên kế hoạch từ trước với Tổng thống Mỹ Barack Obama bên lề hội nghị thượng đỉnh. Hầu như không có gì đả động tới khả năng của Ấn Độ để trở thành một người chơi Đông Á lớn. Điều này phản ánh khoảng cách không nhỏ giữa các khát vọng và thực tế.
Giới hoạch định chiến lược cấp cao của Ấn Độ mong muốn định hình đất nước như một lực lượng đối trong môi trường bao vây chiến lược của Trung Quốc, có thể là thay thế Mỹ trong thời gian dài khi Washington mất đi sức mạnh tài chính cần thiết để phô trương sức mạnh nói chung tại khu vực Đông Á. Kể từ khi sự trỗi dậy về quân sự và kinh tế của Trung Quốc thấm dần vào Nam Á, New Delhi đã nỗ lực tìm kiếm áp lực "ăn miếng trả miếng" tại Đông Nam và Đông Bắc Á để nhắc nhở Bắc Kinh rằng, sự chi phối ở châu Á sẽ không được thừa nhận nếu không có đua tranh.
Những nhân tố chính trị trong chính sách "Hướng Đông" hai thập niên nay của Ấn Độ được nhấn mạnh bởi sự sẵn sàng tiến vào một khu vực mà Trung Quốc "làm mưa làm gió" kể từ khi Nhật Bản giảm sút, với các hy vọng rằng, New Delhi sẽ trỏ thành một "cường quốc cư trú" giống như Mỹ. Tuy nhiên, khác với Washington, New Delhi phải đối mặt với sự khan hiếm nghiêm trọng để có thể thúc đẩy giấc mơ trở thành người chơi chủ chốt tại các khu vực Đông Nam và Đông Bắc Á.
Các nhà chiến lược hải quân Ấn Độ đầu năm nay đã cảnh báo về sự cứng rắn ở khu vực tranh chấp Biển Đông, tiếp theo cuộc tranh cãi với Trung Quốc về việc thăm dò khai thác dầu khí của một công ty dầu quốc doanh Ấn Độ ở ngoài khơi Việt Nam. Đô đốc Arun Prakash, một vị chỉ huy nghỉ hưu của hải quân Ấn Độ khá thận trọng khi đề cập tới khả năng xung đột với Trung Quốc về "tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế" vào thời điểm hải quân Ấn Độ bị dàn mỏng và thiếu phương tiện để duy trì "sự hiện diện hải quân bền vững ở khu vực cách đất nước 4.630 km nhằm hỗ trợ cho tập đoàn ONGC Videsh Ltd hoạt động ở Biển Đông".
Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Tổng thống Mỹ Barack Obama gặp gỡ tại Bali, Indonesia Ảnh: darpanmagazine
Trong sự đảo ngược câu nói của Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt "nói nhẹ nhàng và cầm theo cây gậy lớn", quan chức Ấn Độ không thể dễ dàng tương tác những trao đổi ngoại giao với một số quốc gia Đông Nam Á lo ngại Trung Quốc vào việc mở rộng hải quân cụ thể.
Không giống như Mỹ, Ấn Độ thiếu căn cứ hải quân hay tàu chiến có thể ngăn được sức mạnh của hải quân Trung Quốc ở Đông Nam và Đông Bắc Á.
Trung Quốc, nước thường xuyên bác bỏ tham vọng của Ấn Độ trở thành một siêu cường châu Á bởi những nhược điểm nội bộ, tuy vậy lại không thoải mái với những cuộc diễn tập quân sự đa phương có sự tham gia của Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản và Australia ở những vùng nước mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Nhưng với lực lượng hải quân tương đối yếu, New Delhi trong quá khá đã hạn chế các động thái như vậy để tránh chọc giận Trung Quốc.
Quan điểm của Trung Quốc khi cho rằng, hải quân nước ngoài không nên "xâm nhập" vào những khu vực đại dương rộng lớn bên ngoài khái niệm về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế có thể là vấn đề an ninh tâm điểm của EAS. Mặc dù các tham vọng ngày một tăng cao, Ấn Độ tốt nhất nên là người chơi "khiêm nhường" ở điểm này và sẽ vẫn là như thế chừng nào hải quân của họ chưa trở thành một lực lượng toàn cầu.
Trong lĩnh vực kinh tế, hiệp định tự do thương mại của Ấn Độ (FTA) với 10 thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á tạo cho New Delhi tầm quan trọng không thể phủ nhận tại EAS. Dù thoả thuận này vẫn nhỏ hơn nhiều trong kênh trao đổi hàng hoá so với FTA của Trung Quốc với ASEAN, thì sự đón nhận một thị trường khổng lồ khác với cả tỉ người tiêu dùng ngay cạnh Trung Quốc là điều đáng được hoan nghênh ở các quốc gia nhỏ hơn tại EAS, những nước lo ngại các nhà sản xuất địa phương phải chịu thiệt thòi trong cánh tay xuất khẩu khổng lồ của Trung Quốc.
Tuy nhiên, một trong những thiếu sót trong các chính sách "Hướng Đông" của Ấn Độ là tầm nhìn của nó không đủ vượt quá xa về phía đông. Người Ấn Độ quen thuộc hơn với kế hoạch đóng một vai trò ở Đông Nam Á hơn là hướng tới nơi xa xôi Đông Bắc Á. Thứ hai là động thái hướng tới sự tương tác kinh tế gần gũi hơn, một tiến trình mà với Ấn Độ dường như là thách thức.
Mặc dù có những cách biệt về lịch sử và chiến lược, nhưng Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã tăng cường thêm hàng loạt thoả thuận trao đổi tiền tệ ra đời kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 nhằm đối phó với những cú sốc đột ngột. Là những nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu, ba cường quốc Đông Bắc Á có những ràng buộc chặt chẽ trong lĩnh vực tài chính, tạo ra một động lực mới của các khu vực ủng hộ Trung Quốc cạnh tranh với lối vận động ủng hộ Mỹ kiểu cũ hơn ở Tokyo hay Seoul.
Thách thức của Ấn Độ như một cường quốc kinh tế trỗi dậy là tìm ra con đường đi để nuôi dưỡng các lực lượng ủng hộ Ấn Độ tại Đông Á thông qua công cụ thương mại và tài chính cụ thể. Trừ phi nền kinh tế Ấn Độ phát triển sản xuất và xuất khẩu đáng kể, nếu không New Delhi sẽ tự bị cô lập trong sáng tạo kinh tế địa phương chủ nghĩa mà Trung Quốc đang ở vị trí dẫn đầu. Sức mạnh của Trung Quốc trong xuất khẩu giờ đây đã cho phép họ chuẩn bị một thoả thuận thanh toán thương mại nhân dân tệ với 10 nước thành viên ASEAN, thúc đẩy vị thế của đồng nhân dân tệ như một đồng tiền dự trữ khu vực ở châu Á.
Nút thắt của vấn đề là thực tế rằng, Ấn Độ vẫn chưa phải là nhân vật trung tâm trên sân khấu Đông Á. New Delhi sẽ cần sắp xếp lại sự biến đổi cấu trúc giữa các ưu tiên hải quân và lực đẩy kinh tế trước khi có thể tuyên bố bước vào "trận đấu" với Trung Quốc và là một đối thủ đáng gờm ở Đông Á.

Hổ - rồng tranh hùng

Thế giới sắp hết thời đơn cực?

- Với sự hình thành trụ cột thứ ba trong nền kinh tế thế giới, gồm Mỹ, EU và các thị trường mới nổi, nhiều người cho rằng thế giới đang tiến gần hơn tới đa cực.




Hình minh họa. Nguồn ảnh: Global Research

Hoạt động thương mại và đầu tư nảy nở giữa các các quốc gia đang nổi là một sự thay đổi lớn lao trong cách mà nền kinh tế giới giới vận hành trong nhiều thế kỷ.

Trước đó, thương mại chủ yếu là giữa hai miền “Bắc” và “Nam” – tức là giữa thế giới phát triển và đang phát triển. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên – từ gia vị cho tới bông sợi – đều được chuyên chở sang các quốc gia công nghiệp hóa ở phương Tây, còn các quốc gia này lại xuất khẩu sợi và những sản phẩm chế biến công nghiệp.

Sau Thế chiến II, hệ thống này trở nên phức hợp hơn nhờ có sự nâng cấp về giao thông và truyền thông. Những “nhà giàu mới phất” như là Hàn Quốc và Singapore giàu có nhờ việc outsource.
Họ có lượng nhân công dồi dào, lại rẻ mạt gia công quần áo, giày dẹp và thiết bị điện tử, thường là với thiết kế và công nghệ từ phương Tây, sau đó chuyên chở cho người tiêu dùng Mỹ thông qua Walmart. Với những người mua hàng còn nghèo như ở Ấn Độ và Indonesia, hiện vẫn chưa có nhiều cách tiếp cận tới họ.
Quan hệ căng thẳng giữa những quốc gia đang phát triển – như là xung đột biên giới giữa Nga và Trung Quốc từng làm tê liệt thị trấn Manzhouli – tường tạo nên các rào cản tạm thời. Mỹ và châu Âu đã thống trị thương mại và dòng vốn của thế giới, và tất cả mọi người phải phụ thuộc vào họ vì tăng trưởng và việc làm.
Mẫu hình này đã bắt đầu thay đổi sau khi Trung Quốc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa vào những năm 1980. Các nhà máy tại Thẩm Quyến và Thượng hải đã trở thành tâm điểm của các mạng lưới “gia công không biên giới” mà trong đó, một phần TV, điện thoại di động và các sản phẩm khác được sản xuất trên khắp châu Á, sau đó được chuyển sang Trung Quốc lắp ráp, thúc đẩy thương mại của khu vực rộng lớn hơn.
Tăng trưởng tại Trung Quốc, Ấn Độ và các thị trường đang nổi khác tăng đã làm thay đổi nguồn thu nhập của khu vực, họ bắt đầu xuất khẩu các điểm đến theo cách riêng của họ, với việc các công ty tại các quốc gia đang nổi bán hàng cho người tiêu dùng của quốc gia khác.
Các kết nối này tiếp tục cuốn thêm nhiều phần nữa của thế giới đang nổi. Chẳng hạn, thương mại giữa các nền kinh tế đang nổi của châu Á và Mỹ Latinh tăng lên gấp 7 land trong suốt mười năm cho tới năm 2010, đạt mức 268 tỉ USD. Trung Quốc và châu Á đang tìm kiếm cách thức tiếp cận các nguồn nguyên liệu thô và khách hàng mới, họ đang trở thành những những ông bầu mới của châu Phi. Thương mại giữa Ấn Độ và châu Phi từ mức chỉ có 1 tỉ USD vào năm 2001 đã tăng lên mức 50 tỉ USD vào năm 2010.
Ganeshan Wignaraja – một chuyên gia trong lĩnh vực hội nhập kinh tế tại Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Manila nói rằng, những mối quan hệ trong các thị trường mới nổi này đang tạo nên một “trụ cột thứ ba” của tăng trưởng trong nền kinh tế thế giới, bên cạnh Mỹ và EU.

Ganeshan Wignaraja bình luận: “Chúng ta đang tiến về một thế giới đa cực”. Hệ quả của xu hướng đó còn tiến xa hơn cả sự dòng luân chuyển của hàng hóa đơn thuần. Khi mà thương mại và đầu tư trong thế giới đang nổi càng quan trọng hơn, thì vai trò của phương Tây đối với nền kinh tế toàn cầu lại suy giảm đi, cuộc Đại suy thoái đã khiến xu hướng này trở nên gấp gáp hơn.
Trong khi các nền kinh tế của phương Tây chùng xuống do nợ nần và thất nghiệp, Trung Quốc và Ấn Độ và phần nhiều trong số các nền kinh tế đang nổi lại được tiếp thêm sức và đang tìm kiếm đến nhau nhiều hơn.
Các nhà quản trị doanh nghiệp đang khám phá ra các cơ hội mới tại các quốc gia đang nổi. Các công ty không mấy tên tuổi có thể không tham gia vào các thị trường  đang phát triển, nhưng lại rất thành công ở các thị trường đang nổi, nơi mà sự trung thành không ổn định. Tại Ấn Độ, số hàng hóa bán được của nhà sản xuất điện thoại di động của Trung Quốc là G’Five tăng lên 75% trong năm tài chính vừa qua; những chiếc điện thoại hợp thời của họ rất hấp dẫn các người tiêu dùng của Ấn Độ với kiểu dáng thích hợp cho những chiếc ví mỏng.
Năm 2009, hãng sản xuất máy tính Lenovo đã quyết định tập trung vào các nền kinh tế đang phát triển, với niềm tin rằng kinh nghiệm trong nước có thể tạo ra thế mạnh cho họ tại các quốc gia đang phát triển. Lợi nhuận thu về trong các thị trường đang nổi (bao gồm cả Lenovo đặt tại Trung Quốc) tăng 46.5% trong quý hai, so với mức tăng trưởng chỉ có 8.5% trong các quốc gia phát triển. Điều này đã giúp cho công ty dành được thị phần máy tính toàn cầu.
Và khi các nền kinh tế đang nổi tăng trưởng theo hướng xích lại gần nhau hơn về mặt kinh tế, họ lại khám phá ra các mối quan tâm chính trị chung. Nhóm các nước trong BRIC – gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung QUốc – đã khởi động các hội nghị thường xuyên để phối hợp các nỗ lực trong những vấn đề quan trọng như cải tổ hệ thống tài chính toàn cầu.
Họ đang thách thức trật tự kinh tế đã thiết lập từ trước đó. Chẳng hạn như Trung Quốc và Nga đã đi đầu trong việc thay thế đồng Đô la Mỹ với tư cách là đồng tiền số 1 trong rổ tiền dự trữ. Nếu như hoạt động thương mại và đầu tư siêu âm này giữa các nền kinh tế đang nổi vẫn được duy trì, “tầm quan trọng của Mỹ và EU sẽ bị thu hẹp lại cả về mặt kinh tế và chính trị”, ngài King của ngân hàng HSBC bình luận.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Có ý kiến gì không?