Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

Những bài học nhãn tiền từ đập Tam Hiệp

Peter Bosshard, Giám đốc chính sách của tổ chức Sông ngòi Thế giới, người đã giám sát quá trình xây dựng và vận hành đập Tam Hiệp từ những năm 1990, phân tích những bài học về môi trường, xã hội, kinh tế rút ra từ dự án thuỷ điện tham vọng nhất thế giới của Trung Quốc, có giá trị đối với bất cứ quốc gia nào đang đau đầu về sự lựa chọn thuỷ điện.

Tam Hiệp để lại những hậu quả nghiêm trọng
Một nửa số đập thủy điện lớn của thế giới hiện nằm trên lãnh thổ Trung Quốc. Trong vòng 10 năm qua, các công ty Trung Quốc đã chinh phục thành công thị trường thế giới về các dự án đập thủy điện. Với đập Kamchay và 5 đập khác đang trong quá trình xây dựng, các công ty Trung Quốc cũng đang thống trị trong lĩnh vực thủy điện của Campuchia.
Rất nhiều công ty xây dựng đập của Trung Quốc đã mua lại công nghệ của dự án đập Tam Hiệp khổng lồ trên sông Dương Tử. Các công ty như Sinohydro - chủ nhân của đập Kamchay - thường nhắc đến đập trên sông Dương Tử như một minh chứng cho sự xuất sắc về mặt kĩ thuật. Giống như nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài, Thủ tướng Campuchia Hun Sen cũng ca ngợi dự án này khi ông tới thăm vào năm 2004. Một động thái gây ngạc nhiên là Chính phủ Trung Quốc vừa thừa nhận dự án đập Tam Hiệp gây ra những tác động xã hội, môi trường và địa chất hết sức nghiêm trọng. Vậy những bài học từ kinh nghiệm này là gì?
Với công suất 18.200 MW điện, đập Tam Hiệp là dự án thủy điện lớn nhất thế giới. Dù đây là một công trình phức tạp và nhiều nhức nhối, Chính phủ Trung Quốc đã hoàn thành dự án trước thời hạn vào năm 2008.
Đập sông Dương Tử sản xuất 2% lượng điện của Trung Quốc và thay thế cho 30 triệu tấn than hàng năm. Tuy vậy những chi phí xã hội, môi trường, địa chất và tài chính thì gây nhiều ngạc nhiên. Dưới đây là một bản tóm tắt những vấn đề chính:
- Mất nhà cửa: Đập Tam Hiệp đã phủ kín 13 thành phố, 140 thị trấn và 1350 làng và làm 1,2 triệu người mất nhà cửa. Rất nhiều người dân phải tái định cư đã bị lừa mất tiền bồi thường và không nhận được công việc mới hay đất đai như chính phủ đã hứa. Trong khi một số thị trấn mới được xây dựng vừa phục hồi từ cú sốc mất nơi ở ban đầu, nhưng nhiều người khác lại bị lâm vào tình trạng thất nghiệp và nghèo đói.
- Hủy hoại về sinh thái: Việc xây dựng đập thủy điện Tam Hiệp được chuẩn bị trước để đối mặt với những vấn đề xã hội và môi trường, nhưng không được chuẩn bị cho các tác động địa chất rộng rãi. Sự thay đổi thất thường của mực nước tại các hồ chứa nước của đập làm mất ổn định độ dốc của thung lũng Dương Tử, và kích hoạt những trận lở đất thường xuyên. Xói mòn ảnh hưởng tới một nửa diện tích hồ chứa, và hơn 300.000 người nữa sẽ phải tái định cư để ổn định lại bờ hồ chứa.
Đập Tam Hiệp của Trung Quốc. Ảnh: Christoph Filnkößl (Wikipedia)
- Các tác động tới hạ lưu: sông Dương Tử lưu chuyển hơn 500 tấn phù sa xuống các hồ chứa mỗi năm. Hầu hết lượng phù sa hiện nay bị giữ tại các khu vực hạ lưu và đặc biệt là đồng bằng Dương Tử. Hậu quả là, lên tới 4 cây số vuông vùng đầm lầy rìa bờ biển bị xói mòn hàng năm. Đồng bằng đang chìm dần, trong khi nước biển thì dâng ngược xâm lấn vào sông, ảnh hưởng tới nông nghiệp và nước uống. Vì thiếu chất dinh dưỡng, các ngư trường hiện nay đang phải gánh chịu hậu quả.
- Nhạy cảm với biến đổi khí hậu (BĐKH): đập Tam Hiệp là minh chứng cho sự thay đổi thất thường của BĐKH tạo ra những rủi ro mới cho các dự án thủy điện như thế nào. Những người vận hành đập lập kế hoạch tích nước đầy hồ chứa lần đầu tiên vào năm 2009, nhưng họ không thể làm vậy vì không có đủ mưa. Lượng mưa thất thường hơn bao giờ hết đặt một dấu hỏi lớn đằng sau những lợi ích kinh tế của đập Tam Hiệp.
- Chi phí tài chính: chi phí chính thức cho đập sông Dương Tử là 27 tỷ USD. Các nhà phê bình lập luận rằng, nếu những chi phí ẩn được tính vào, thì giá trị thực của con đập lên tới 88 tỷ USD. Nếu sản xuất điện và thay thế phương pháp đốt than tạo điện bằng các phương pháp khác thì sẽ rẻ hơn. Trong khi con đập đang được xây dựng, hiệu suất năng lượng của nền kinh tế Trung Quốc đi xuống. Theo Tổ chức Năng lượng tại Mỹ, "nếu Trung Quốc đầu tư vào hiệu suất năng lượng, thì năng lượng của nước này sẽ rẻ hơn, sạch hơn và hiệu quả cao hơn" là những nhà máy năng lượng hạt nhân mới.
Ngày 18/5/2011, Chính phủ Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhận các vấn đề nghiêm trọng của đập. Chính phủ vẫn cho hay: "Dự án này có lợi ích to lớn trong việc ngăn lũ, sản xuất điện, giao thông đường sông và sử dụng nguồn nước", nhưng nó "đã gây ra những vấn đề khẩn cấp về mặt bảo vệ môi trường, ngăn ngừa các thảm họa địa chất và phúc lợi của các cộng đồng tái định cư".
Không nên xây đập trên dòng chính
Dự án đập Tam Hiệp được coi là một hình mẫu về xây dựng đập cho các dự án ở Campuchia và rất nhiều nước khác. Các nhà thầu đập Tam Hiệp như Sinohydro và Gezhouba và các công ty Trung Quốc khác hiện đang xây dựng các đập Da Dai, Kamchay, Kirirom III, Lower Stung Russey, Stung Atay và Stung Tatay trên các con sông tại Campuchia. Các công ty Trung Quốc cũng kí biên bản ghi nhớ phát triển đập Sambor trên sông Mekong, và đã đề xuất một số các dự án trên các sông Stung Cheay Areng và Srepok.
Các bài học từ dự án đập Tam Hiệp khi Campuchia cân nhắc chiến lược phát triển thủy điện trong tương lai là gì? Đầu tiên, đập sông Dương Tử cho thấy các con đập lớn trên sông chính là tác nhân can thiệp vào các hệ sinh thái có mức độ đa dạng cao. Các tác động của chúng có thể xảy ra cách xa hàng ngàn cây số và nhiều năm sau khi công trình hoàn thành. Người ta không thể dự đoán và giảm nhẹ tất cả các tác động xã hội và môi trường của những dự án như thế.
Kinh nghiệm từ đập Tam Hiệp cho thấy xây dựng đập trên dòng chính các sông lớn sẽ đặc biệt hủy hoại, vì nó sẽ ngăn cản sự di cư của cá và lưu chuyển của phù sa trên suốt hệ sinh thái của dòng sông. Trong bản báo cáo đầu tiên - Đập và Phát triển - Ủy hội Đập Thế giới khuyến nghị, nếu có các lựa chọn khác thì không nên xây dựng đập trên dòng chính.
Một Đánh giá Môi trường Chiến lược được chuẩn bị cho Ủy hội Sông Mekong (MRC) dự đoán rằng xây đập trên dòng chính hạ lưu sông Mekong sẽ gây ra thiệt hại các ngư trường đánh bắt cá ven sông và ven biển, làm giảm sản lượng nông nghiệp tại vùng đầm lầy Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), làm xói mòn đường bờ biển của đồng bằng và đường bờ biển. Tất cả những tác động này đã xảy ra và được minh chứng trong dự án đập Tam Hiệp.
MRC đã đúng khi khuyến nghị rằng không nên xây đập trên hạ lưu sông Mekong trong vòng 10 năm tới, và Chính phủ Campuchia có những lý do chính đáng để kêu gọi sự cẩn trọng về đập Xayaburi dự kiến xây dựng tại Lào. Cũng nên cẩn trọng như vậy khi cân nhắc đập Sambor tại tỉnh Kratie.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã dự đoán rất nhiều tác động của đập Tam Hiệp, tuy nhiên tiếng nói của họ rơi vào lặng im khi chính phủ chỉ chú tâm tới những mối quan tâm của quốc gia.
Trong các dự án trị giá nhiều tỷ đôla, những mối quan tâm đó thường bị lu mờ bởi tiếng tăm về chính trị, các cuộc đấu tranh giành quyền lực và phản ứng kịch liệt của ngành mà con người dễ sa vào tham nhũng. Những mối quan tâm bất di bất dịch này cần được cân bằng và chỉ rõ trách nhiệm bằng quá trình ra quyết định minh bạch và có sự tham gia rộng rãi.
Cuối cùng, Trung Quốc đã dành hàng chục tỷ đôla cho các chương trình tái định cư đập Tam Hiệp. Nhưng vì những người bị ảnh hưởng lại bị loại ra khỏi quá trình ra quyết định, chương trình này thường không đề cập tới nhu cầu và mong muốn của họ, và gây ra sự nghèo đói và phẫn nộ lớn trong quần chúng. Kinh nghiệm sông Dương Tử cho thấy những cộng đồng bị ảnh hưởng và những người liên quan nên tham gia vào quá trình ra quyết định đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lớn ngay từ đầu.
  • Mạng lưới Sông Ngòi Việt Nam (VRN) dịch
Tác giả: Peter Boshard (Thời báo Phnom Penh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Có ý kiến gì không?