Thứ Ba, 11 tháng 10, 2011

Giáo dục:Ai được, ai mất trong trò chơi thành tích?

Ai được, ai mất trong trò chơi thành tích?
 Phong trào “Nói không với bệnh thành tích” được phát động nhiều năm nay. Rất tiếc là bệnh thành tích trong ngành giáo dục vẫn không giảm mà dường như càng thêm phổ biến: từ lạm phát điểm 9, điểm 10 trong trường phổ thông nay lạm phát đến sinh viên xuất sắc, lạm phát cả thạc sĩ và tiến sĩ.
Cơn lạm phát này không chừa cả trường công lẫn trường tư, trường “danh giá” lẫn trường “tai tiếng”. Nguyên nhân thì nhiều người đã nói: do “bán điểm”, do sợ bị cắt hợp đồng giảng dạy, do sợ mất thành tích... Nhưng dù có bao nhiêu nguyên nhân đi nữa thì hậu quả cũng chỉ có một.
Kết quả của việc 95-98% sinh viên đạt loại khá giỏi khi ra trường là gì? Thoạt nhìn, hình như ai cũng “được”. Nhà trường được thành tích; giáo viên được khen thưởng, được lòng học trò, được tiếp tục hợp đồng mời giảng; sinh viên được điểm cao, cha mẹ hài lòng.
Nếu các bên liên quan đều được, vậy thì ai mất? Tất nhiên là có. Trước hết là nhà tuyển dụng. Khi tấm bằng là một vật chứng đáng tin cậy, nhà tuyển dụng có thể căn cứ vào đó để thực hiện bước sơ tuyển. Nay đứng trước 100 đơn xin việc với 99 tấm bằng khá giỏi, họ buộc phải tự mình làm công việc đánh giá ứng viên ngay từ vòng sơ tuyển.
Hay nói cách khác, xét về mặt giá trị so sánh thì 99 tấm bằng này có giá trị bằng không (vì không thể dùng để so sánh tương quan giữa các ứng viên được).
Một khả năng rất dễ xảy ra là sau khi tự mình sơ tuyển chừng vài chục hồ sơ, người tuyển dụng sẽ nhận thấy trong nhiều trường hợp những gì ghi trên tấm bằng không hề phản ánh trung thực phẩm chất hay năng lực của người có tấm bằng ấy. Kết luận logic là: không thể tin được một tấm bằng nào cả. Chính người viết bài này đã từng phỏng vấn tuyển dụng những em có bằng đại học ngoại ngữ mà không đọc hiểu nổi một đoạn văn ngoại ngữ thông thường.
Lúc đó ai sẽ mất? Tất nhiên là sinh viên. Oan nhất là những em học hành nghiêm túc và có năng lực thật sự. Nhưng những em như vậy sớm muộn gì cũng có cách khẳng định được năng lực của mình, tuy sẽ phải tốn thời gian hơn. Cái mất lớn nhất là của cả hệ thống giáo dục và của từng trường.
Đằng sau mỗi tấm bằng đại học là bao nhiêu hi sinh tiền bạc của người dân, bao nhiêu năm tháng của tuổi trẻ, bao nhiêu công sức của Nhà nước, nhà trường. Nay tấm bằng ấy bị nhà tuyển dụng xem như một thứ vô giá trị, có phải là lãng phí biết bao tiền bạc, thời gian, công sức của cả xã hội?
Điểm 10, bằng đỏ chỉ có giá trị khi nó phản ánh một năng lực đặc biệt xuất sắc. Nếu mọi tấm bằng đều là bằng đỏ thì không ai coi đó là bằng danh dự nữa. Tất cả đều hạ giá ngang nhau. Nhưng điều tai hại là trong khi hạ giá như vậy, nó lấy đi mất lòng tin của cả xã hội.
Như vậy, tất cả các bên đều mất. Sinh viên có bằng khá giỏi cũng như không, nhà tuyển dụng nhận hồ sơ không thể căn cứ vào tấm bằng, nhà trường mất uy tín khi tấm bằng không giúp sinh viên tìm được việc làm tốt, cha mẹ sinh viên thất vọng vì đầu tư đã không hoàn vốn như mong đợi, xã hội mất lòng tin vào mọi thang bậc và thước đo, mọi giá trị bị đảo lộn.
Trong trò chơi thành tích này, nhìn bề ngoài tất cả đều thắng, nhưng trong thực tế tất cả đều thua.
“Nguyên nhân của mọi nguyên nhân” trong hiện tượng chạy theo thành tích là gì? Là do con người chưa được sử dụng và thăng tiến dựa trên năng lực có thật của họ. Chính điều này đã kìm hãm việc phát triển nhân tài và tạo ra căn bệnh thành tích chỉ làm sâu thêm những rạn nứt trong những giềng mối cố kết xã hội.
Nó làm chậm lại mọi quá trình tiến bộ và phát triển cả về kinh tế và văn hóa. Bí quyết trở nên giàu mạnh của các nước phát triển chính là chế độ nhân tài, tức dùng người và trả công cho họ chỉ dựa trên tiêu chuẩn duy nhất là giá trị sức lao động của họ trong thực tế. Bao giờ chúng ta có một hệ thống lành mạnh như vậy thì bệnh thành tích tự nó không còn chỗ đứng.
TS PHẠM THỊ LY

Được gì từ nền giáo dục thừa đại học?

 Mùa tuyển sinh năm 2011 đã khép lại với thực tế: nhiều trường không tuyển đủ sinh viên, nhiều ngành học đóng cửa. Các chuyên gia nhận định đây là hệ quả của một thị trường giáo dục ĐH đang hỗn độn. Sau cùng, vấn đề giải quyết khủng hoảng "thừa trường, thiếu người học" phải đặt lên vai của các nhà hoạch định chính sách giáo dục.



Thí sinh sau kỳ thi ĐH 2011. Ảnh: Lê Anh Dũng
Dễ như mở trường Chỉ trong vòng 10 năm (2000-2011) cả nước có từ 69 trường ĐH tăng lên 163 trường. Hàng loạt bài báo mổ xẻ việc các trường ĐH mọc lên ồ ạt trong năm 2009 là minh chứng cho việc mở trường dễ dãi.


Hiện đã có 62/63 tỉnh, thành có trường ĐH, CĐ. Trong 2 năm (2006, 2007) đã có thêm 40 trường ĐH mới thành lập.



Sự gia tăng nhanh chóng này đã vượt khỏi tầm quản lý của Bộ GD-ĐT. Báo cáo của Bộ GD-ĐT năm 2009 thừa nhận: “Khả năng kiểm soát hoạt động của các trường trong cả nước của rất hạn chế, nếu mỗi tuần Bộ thanh tra, kiểm tra hai trường ĐH, CĐ thì phải mất 3,5 năm mới thanh tra, kiểm tra hết một lượt 376 trường”.


Hạn chế trong việc thành lập trường ĐH, CĐ được Chính phủ nhìn nhận tại báo cáo số 34 gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội tháng 4/2010 nêu "vẫn còn 20% trường ĐH, CĐ thành lập mới chưa thực hiện việc xây dựng trường tại địa điểm đăng ký thành lập trường, chưa thực hiện đầy đủ các cam kết như trong Đề án khả thi thành lập trường, còn phải đi thuê mướn cơ sở để thực hiện việc tổ chức hoạt động vào đào tạo".


Một loạt các trường ĐH đã xin cấp phép tại các địa phương khác như Hà Tây cũ, Hòa Bình nhưng lại tuyển sinh, đào tạo... ngay giữa nội thành Hà Nội. Điều này cũng tương tự một số trường ở địa bàn lân cận TP.HCM.


Hàng loạt ĐH ngoài công lập đã được lập ra.

Thí sinh sau kỳ thi ĐH. Ảnh: Lê Anh Dũng

Riêng trong tháng 8/2009, 5 trường ĐH mới được công bố thành lập: Trường ĐH Nông lâm Bắc Giang ra đời trên cơ sở nâng cấp Trường CĐ Nông lâm Bắc Giang (trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn). Trường ĐH Công nghệ Đồng Nai được đồng ý chủ trương thành lập trên cơ sở nâng cấp Trường CĐ Kỹ thuật - Công nghệ Đồng Nai. Trường ĐH Công nghệ giao thông vận tải thành lập trên cơ sở nâng cấp Trường CĐ Giao thông vận tải, trực thuộc Bộ Giao thông vận tải. Trường ĐH Nguyễn Tất Thành thành lập trên cơ sở nâng cấp Trường CĐ Nguyễn Tất Thành tại TP.HCM (trước đó là trường trung cấp Nguyễn Tất Thành)...



Khi việc triển khai xây dựng trường chưa thực hiện đồng bộ 4 yếu tố: đất, đội ngũ giảng viên, vốn đầu tư và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác như thư viện, giáo trình, ký túc xá...nhưng Bộ vẫn duyệt chỉ tiêu, cho phép mở ngành đào tạo được duy trì nhiều năm nay thì điều gì sẽ xảy ra?


Khó như tuyển sinh


Những năm gần đây, Bộ GD-ĐT nỗ lực chỉ đạo nâng chất lượng giáo dục. Nhưng, trong khi tỷ lệ tốt nghiệp luôn đạt rất cao, ngưỡng vào ĐH lại chỉ loay hoay trong khoảng 13-14 điểm/ 3 môn. Thậm chí, ngưỡng dù không cao nhưng cũng khiến nhiều trường điêu đứng vì không tuyển đủ sinh viên.


"Tất cả những bất cập trong tuyển sinh đã diễn ra trong vài năm gầy đây cho thấy hệ thống giáo dục ĐH đang bị rối loạn" - ông Lê Viết Khuyến, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT) nói. Đây cũng là nhận định của nhiều chuyên gia giáo dục khi góp ý cho dự thảo Luật Giáo dục ĐH sẽ trình Quốc hội xem xét phê duyệt vào kỳ họp tới.


Rất nhiều trường mới mở (không riêng các trường ngoài công lập) đều ấn định điểm trúng tuyển bằng điểm sàn của Bộ dẫn đến sự cạnh tranh bằng mọi cách để vét cho được sinh viên


Trước tình cảnh đó, các trường vận dụng đủ mọi "chiêu" để "hút" sin viên, từ "khuyến mại" điểm cho tới xét tuyển sớm, tặng tiền. Một số ĐH, thậm chí cả ĐH gắn mác "quốc tế" đã tự biến mình thành trường “vùng khó” để xin Bộ GD-ĐT tuyển sinh thấp hơn điểm sàn.


Một số ĐH công lập lớn lại tận dụng phương thức “đào tạo theo địa chỉ”, đào tạo ngoài ngân sách… nhằm kéo thêm sinh viên có điểm thấp để thu học phí giá cao. Một số trường có "thương hiệu" mở đủ loại hình đào tạo ĐH, sau ĐH CĐ, TCCN - đã khiến tuyển sinh ở nhiều trường khác gặp khó về nguồn tuyển.


Theo ông Khuyến, ĐHQG tuyển hệ CĐ là vô lý. Nếu các trường lớn ấn định điểm chuẩn bằng điểm sàn sẽ vét hết sinh viên rồi thì các trường tốp giữa và tốp dưới sẽ "đói".


Còn ông Văn Đình Ưng, Hiệp hội các trường ĐH, CĐ ngoài công lập cho biết, mùa tuyển sinh năm 2010 đã xin Bộ kéo dài thời gian xét tuyển thêm 15 ngày. Nhưng dù đã kéo dài nhưng nhiều trường vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu. Tình trạng này sẽ tiếp diễn trong năm nay, một số trường đang đứng bên bờ vực đóng cửa hoặc có khả năng "nhắm mắt" làm sai quy chế tuyển sinh để kiếm cho ra người học.


Vấn đề đặt ra, khi Bộ xem xét cho mở trường, duyệt hồ sơ cho phép mở ngành đào tạo mà các trường tuyển không đủ chỉ tiêu, ngành học phải đóng cửa thì phải xem lại khâu nào trong quản lý?


Giải pháp trước mắt, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho rằng, những trường chưa thu hút được thí sinh nên tập trung xây dựng được uy tín về chất lượng, quảng bá hình ảnh, tạo dựng niềm tin trong xã hội.


Thực tế thì có nhiều trường ngoài công lập thu hút thí sinh rất mạnh nhờ uy tín chất lượng mà các trường này đã xây dựng được ngay từ đầu. Sự khác nhau cơ bản ở đây là uy tín và thương hiệu của từng trường.



Việc một số trường sử dụng một số hình thức lôi kéo thí sinh bằng vật chất là không phù hợp, đôi khi phản tác dụng, gây phản cảm đối với thí sinh và xã hội, không có lợi cho sự tạo dựng uy tín và sự phát triển lâu dài của nhà trường.

 Biết nhượng bộ nhau- bước đầu tiên để đổi mới giáo dục!

Chiếc xe bò đã cũ kỹ phải được thay bằng chiếc ô tô, đừng mất công sơn, tút lại chiếc xe bò đó làm gì. Lời giải cho câu hỏi làm sao có thể "thay động cơ cho chiếc máy bay khi nó đang hoạt động trên bầu trời" là: Hãy cho phép toàn xã hội có một sự thi đua xây dựng chương trình học cho trẻ em. Nhà nước đóng vai trò giám sát, trẻ em và cha mẹ chúng, gia đình chúng, và cả xã hội là người kiểm định chất lượng.
Bóng đá có thể ngừng, giáo dục không thể
So với giáo dục thì bóng đá là một lĩnh vực hẹp, thậm chí rất hẹp. Những đề nghị sửa đổi, đổi mới, thậm chí cải cách toàn diện nền bóng đá, nếu có, thực chất cũng không mang tính chất cấp bách hoặc có liên hệ chặt chẽ tới vận mệnh của đất nước, như những lời kêu gọi đòi đổi mới thống thiết trong giáo dục. Bởi bóng đá nói cho cùng cũng chỉ là một hoạt động thể thao, không phải là không thể không có!
Ấy thế nhưng cũng phải mất rất nhiều năm trời, bóng đá Việt Nam mới dám vượt qua lực cản tâm lý để bắt đầu một cuộc đổi mới thực sự. Để mọi khán giả yêu quý môn thể thao vua này có thể hy vọng, rằng bóng đá Việt Nam đang dần trở thành bóng đá chuyên nghiệp, như nhiều quốc gia khác.
Đó là cuộc đấu tranh và vận động thành công trong thời gian vừa qua của các câu lạc bộ bóng đá, đòi thành lập 1 bộ máy điều hành giải bóng đá quốc gia theo mô hình công ty cổ phần. Mô hình này đã được chứng minh là thành công ở rất nhiều giải bóng đá trên thế giới.

Những cái đầu bảo thủ đứng trước những ý tưởng sáng tạo thì phản xạ đầu tiên của họ bao giờ cũng là bật ra lời phán: "Không tưởng", "ảo tưởng", "phiêu lưu"...V..v.. và .v..v. Nhưng sự khủng hoảng giáo dục hiện nay cho thấy hãy hành động vì lợi ích trẻ em, đừng vì sự ích kỷ và lợi ích của người lớn
Giáo dục Việt Nam hãy dũng cảm vượt qua lực cản bảo thủ. Nếu bóng đá chỉ vì có mỗi giới khán giả hâm mộ mà đang gây ra cơn địa chấn, thế thì tại sao giáo dục, 1 công việc, 1 sự nghiệp lớn vì sự trường tồn và phát triển của cả dân tộc, lại triền miên tỏ ra dửng dưng trước mọi lời kêu gọi đổi mới!
Bài học của bóng đá cho thấy 1 điều, là sự tranh luận công khai và thuyết phục để đi đến sự nhượng bộ lẫn nhau, là bước đầu tiên để đổi mới bất kỳ một hoạt động xã hội nào. Đòi hỏi một sự "bằng lòng nhau" tuyệt đối là không thể. Nói cho cùng thì mỗi bên đều có những mối quan tâm, những lợi ích riêng được ưu tiên và sự xung đột lợi ích giữa 2 bên là điều đương nhiên khó tránh khỏi. Song, dù không đồng tình thì cũng phải đồng hành cùng nhau vì 1 lợi ích chung, vì lợi ích cao cả hơn những lợi ích của mỗi bên.
Dĩ nhiên sự đổi mới trong giáo dục khó khăn hơn rất, rất nhiều. Bóng đá nói cho cùng có thể tạm ngừng trong một năm, trong nhiều năm hoặc thậm chí ngừng vĩnh viễn, mà vẫn "chẳng chết ai". Giáo dục thì không thể tạm ngừng dù chỉ 1 ngày, 1 phút, 1 giây. Có người đã ví sự đổi mới triệt để giáo dục, cách nào đó, giống như phải thay động cơ 1 chiếc máy bay trong lúc chiếc máy bay vẫn phải tiếp tục... bay trên không trung!
Mặt khác, sự đổi mới trong lĩnh vực bóng đá không đòi hỏi cấp thiết ở chỗ người ta có thể hoãn lại một chút cũng được. Đối với giáo dục thì lại hoàn toàn khác. Không đổi mới giáo dục ngay lập tức thì toàn xã hội vẫn tiếp tục lạc hậu, lạc hậu so với chính mình đã đành, song còn lạc hậu so với toàn thế giới. Một thế hệ trẻ khi ấy dẫu có đá bóng giỏi thì bất quá cũng chỉ đem lại không khí tự hào chốc lát trên 1 "cầu trường" mà thôi!
Tại sao lại nhất bên ghét, nhất bên thương?
Giáo dục Việt Nam bao năm nay liên tục nhận được những lời kêu gọi đổi mới. Những kiến nghị, đề án đổi mới của khu vực xã hội dân sự như nhóm của GS Hoàng Tụy, của nguyên Phó CT nước Nguyễn Thị Bình, của GS Hồ Ngọc Đại, của rất nhiều cá nhân những trí thức, học giả nổi tiếng khác. Cả của những trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài, bằng tiếng nói cũng như việc làm cụ thể, và gần đây nhất là của nhóm biên soạn sách giáo khoa phổ thông có tên Cánh Buồm, đều dường như chỉ là "để tham khảo".
Tức có thể hiểu là "hãy đợi đấy!" và có thể đoan chắc là không thể biết ai là người đã hoặc sẽ ngồi xuống và nghiêm túc đọc rồi nghiên cứu những kiến nghị đó.

Hãy cho phép toàn xã hội có một sự thi đua xây dựng chương trình học cho trẻ em. Ảnh minh họa. Nguồn: VOV
Có ý kiến tham khảo tức là phải có ý kiến được gọi là chính thống. Như thế, giáo dục vô tình bị biến thành 2 phái. Điều đáng buồn nhất là phái chính thống hiện nay không chịu nhượng bộ phái kia, hay là sẽ mãi mãi không nhượng bộ? Đó là một câu hỏi lớn.
Tại sao lại có những lực cản gây khó khăn đến thế cho những ý tưởng mới đóng góp cho việc chấn hưng giáo dục nước nhà của những trí thức có tâm huyết. Trong khi đó, ngành lại thả nổi, thả lỏng cho các trường ngoài công lập, các trường học liên doanh, liên kết với nước ngoài hoành hành, thực chất là kinh doanh- từ mẫu giáo, tiểu học cho đến đại học?
Bắt buộc phải nhượng bộ nhau, là vì quyền lợi của đại đa số trẻ em Việt Nam (chứ không phải vì 1 thiểu số nào đó). Nếu nhà trường làm sai thì phải đổi mới triệt để, chứ đừng cải tạo, kiểu như chủ trương giảm tải hiện nay.
Chiếc xe bò đã cũ kỹ phải được thay bằng chiếc ô tô, đừng mất công sơn, tút lại chiếc xe bò đó làm gì. Lời giải cho câu hỏi làm sao có thể "thay động cơ cho chiếc máy bay khi nó đang hoạt động trên bầu trời" là: Hãy cho phép toàn xã hội có một sự thi đua xây dựng chương trình học cho trẻ em. Nhà nước đóng vai trò giám sát, trẻ em và cha mẹ chúng, gia đình chúng, và cả xã hội là người kiểm định chất lượng.
Đi vào thực hiện cụ thể, lấy ví dụ vấn đề sách giáo khoa (bởi vì làm giáo dục rút cục là phải làm ra được sách giáo khoa) thì sẽ là bằng cách cho phép một số trường nào đó được chính thức áp dụng "thực nghiệm" những chương trình học khác nào đó. Hoặc có thể là áp dụng "song song" với chương trình học được gọi tên là chính thống. Nhà nước đóng vai trò kiểm định chuyên môn, khách quan và công bằng.
Những cái đầu bảo thủ đứng trước những ý tưởng sáng tạo thì phản xạ đầu tiên của họ bao giờ cũng là bật ra lời phán: "Không tưởng", "ảo tưởng", "phiêu lưu"...V..v.. và .v..v. Nhưng sự khủng hoảng giáo dục hiện nay cho thấy hãy hành động vì lợi ích trẻ em, đừng vì sự ích kỷ và lợi ích của người lớn
Giáo dục Việt Nam hãy dũng cảm vượt qua lực cản bảo thủ. Nếu bóng đá chỉ vì có mỗi giới khán giả hâm mộ mà đang gây ra cơn địa chấn, thế thì tại sao giáo dục, 1 công việc, 1 sự nghiệp lớn vì sự trường tồn và phát triển của cả dân tộc, lại triền miên tỏ ra dửng dưng trước mọi lời kêu gọi đổi mới!


Oằn vai đi học : Khổ sở vì học
 Chủ trương giảm tải là tín hiệu vui với hi vọng giúp học sinh (HS) bớt căng thẳng. Nhưng trên thực tế, HS vẫn phải “cày” hàng đống bài tập và bài “thuộc lòng”, phải nhồi nhét đủ thứ kiến thức mới mong đủ sức đi thi.
Truy bài cuối giờ học của học sinh lớp 9/1 Trường THCS Bạch Đằng, Q.3, TP.HCM chiều 27-9 - Ảnh: Như Hùng
Nhiều phụ huynh có con học lớp 4 và lớp 5 Trường tiểu học Trung Tự, Hà Nội cho chúng tôi xem một loại vở khá lạ là vở “tăng cường”. Trong vở này, HS ghi lại các yêu cầu của giáo viên và chuẩn bị cho bài học hôm sau.
Tăng vẫn cứ tăng
Một phụ huynh có con học lớp 4 trường này cho biết: “Chỉ riêng yêu cầu về tập viết và tiếng Việt thôi, cả mẹ và con đã phải đánh vật đến tận khuya. Nếu ngày hôm sau ở trường có giờ tập viết, thì tối hôm trước con phải viết trước một trang vào vở”. Giáo viên giải thích phải cho HS tập viết nhiều để “lớp được chấm 100% vở sạch chữ đẹp”.
Một phụ huynh khác nói: “Riêng môn tiếng Việt phải chuẩn bị bài ở nhà rất nhiều, trong khi con tôi đã học ở lớp hai buổi/ngày. Cô giáo yêu cầu HS về nhà phải đọc, trả lời tất cả câu hỏi theo sách giáo khoa của mỗi bài học sẽ dạy vào buổi hôm sau. Ngoài ra, cô còn có thêm những câu hỏi riêng liên quan đến bài học mới”.
Còn HS lớp 1 Trường tiểu học Phúc Đồng, Long Biên, Hà Nội chỉ sau một tháng vào học đã phải viết chính tả. Chị M. - phụ huynh lớp 1 - bức xúc: “Để có thể làm được việc này, các bé phải nghe và hiểu được các từ, cách viết đúng chính tả”.
Trong khi đó, giáo viên lớp 1 ở Trường tiểu học Thịnh Hào, Hà Nội cho biết: “Tuần thứ ba của học kỳ 1, đầu mỗi tiết học các em phải tự viết ngày tháng vào vở, viết tên bài vào vở theo nội dung cô giáo ghi trên bảng”. Anh H. - phụ huynh HS, đồng thời cũng là giáo viên THPT - bức xúc: “Tôi không hiểu chương trình giáo dục hiện nay thế nào. Trên thì bảo giảm tải nhưng ở trường vẫn có những yêu cầu quá sức HS như thế. Để có thể chép nội dung cô giáo yêu cầu khi mới bắt đầu học kỳ đầu tiên, nếu không học trước chương trình, các bé lớp 1 phải bổ túc thêm ngoài giờ”.
Ở trường này, ngoài các yêu cầu bài tập trong sách giáo khoa và vở bài tập của NXB Giáo Dục, phụ huynh HS phải mua cho con sách Tiếng Việt thực hành, Toán thực hành và sách Tiếng Việt của riêng trường soạn. Trong hai buổi học ở trường, HS phải hoàn thành bài tập ở tất cả cuốn sách trên. Trong số những bài tập ở các sách “thêm”, có những yêu cầu mà Bộ GD-ĐT đã đề nghị lược bỏ ở tài liệu giảm tải vừa ban hành.
Tối mắt tối mũi
Chính vì yêu cầu quá cao từ chương trình học, HS phải tăng ca mới mong theo kịp bài vở trên lớp. Thời lượng một HS ở TP.HCM phải đến lớp học chính khóa, tăng tiết, phụ đạo và học thêm có thể lên đến hơn 10 tiết học mỗi ngày (60-80 tiết/tuần).
Chị M., phụ huynh có con học lớp 12 Trường THPT Lê Quý Đôn, TP.HCM, bức xúc: “Từ hồi lên cấp III, con gái tôi lúc nào cũng trong tình trạng thức đêm, dậy sớm, mỏi mệt. Ăn trưa phải ăn ở trường để kịp học phụ đạo buổi chiều. 17g mới ra, lại phải tắm rửa để đi học thêm tiếng Anh và toán buổi tối. Đã vậy bài tập về nhà lại quá nhiều, tối nào cũng làm bài tập 4-5 trang giấy. Sáng dậy sớm học thuộc lòng nhưng cháu bảo học như thế vẫn không hết bài.”
Trong khi đó, một phụ huynh có con học lớp 9 Trường THCS Tăng Bạt Hổ, Q.4, TP.HCM kể: “Con tôi nói giáo viên bộ môn thường cho bài về nhà yêu cầu làm, trong khi phần lý thuyết ở lớp cô chỉ nói sơ, như định nghĩa một định lý, đọc cho HS chép vào vở, vẽ được hình minh họa trên bảng là hết giờ, ít có thời gian giảng giải. Mỗi môn 3-4 bài tập thì mỗi ngày con tôi phải giải hơn chục bài tập, không còn thời gian để thở”.
Còn chị P., có con học lớp 9 Trường THCS Văn Thân, Q.6, TP.HCM, kể: “Sáng cháu học năm tiết. Buổi chiều học ở trường, ca một bắt đầu từ 13g-14g30, ca hai từ 15g-16g30, ca ba từ 16g45-18g15 và ca bốn từ 18g30-20g để phụ đạo, bồi dưỡng các môn chính là toán, lý, hóa, văn, tiếng Anh. Tùy ngày hai ca hay ba ca mà vợ chồng tôi thu xếp đón đưa cháu”.
Bên cạnh đó, chuyện tăng tiết, phụ đạo đã trở thành chuyện bình thường. Trước đây, nếu tăng tiết, phụ đạo chỉ dành cho HS yếu, kém thì hiện nay HS nào cũng phải được tăng tiết, phụ đạo mới mong theo kịp chương trình.
Thầy Nguyễn Đình Độ, giáo viên môn hóa có gần 30 năm giảng dạy tại TP.HCM, cho biết: “Chương trình hiện thời vẫn còn quá nặng dù đã giảm tải khoảng 5%. Dứt khoát phải có tăng tiết, phụ đạo thì giáo viên và HS mới chạy theo kịp chương trình để đáp ứng yêu cầu thi cử”.
Cũng vì chạy theo chương trình và chỉ tiêu, giáo viên buộc phải cho HS nhiều bài tập hơn và dạy nâng cao hơn để đạt thành tích cao hơn.
Một giáo viên dạy lớp 5 Trường tiểu học Phan Chu Trinh, Q.Gò Vấp, TP.HCM cho biết: “Nhiệm vụ của giáo viên là phải làm sao thì làm, phấn đấu càng nhiều HS đạt loại giỏi càng tốt. Muốn vậy, ngoài bài trong sách, phải cho các em bài tập tăng cường và yêu cầu cao, kiểm tra, hỏi bài liên tục và phối hợp với phụ huynh kèm thêm bài tập ở nhà”.
Quá tải do bị nhồi nhét, yêu cầu quá cao ở trên lớp, khiến nhiều HS không hiểu bài, bị điểm kém và đó là kết cục tất yếu dẫn đến việc phải học thêm ngoài giờ.
Phụ huynh cũng ép con học
Chị Nguyễn Ánh Tuyết - phụ huynh lớp 5A1 Trường tiểu học Ngọc Hà (Ba Đình, Hà Nội) - cho hay tại buổi họp phụ huynh ngày 25-9, cô giáo chủ nhiệm đã thông báo chương trình giảm tải sẽ giúp HS học tập trọn vẹn trên lớp mà không phải làm thêm bài ở nhà. Tuy nhiên nhiều phụ huynh lớp này tỏ ra lo lắng và lập tức đề nghị cô giáo giao thêm bài tập cho trẻ làm bài ở nhà vì “trẻ chỉ chịu làm bài khi cô giáo giao bài chứ không làm bài do bố mẹ giao”.
Trong khi đó, phụ huynh Trường tiểu học Đoàn Thị Điểm thấy số phiếu bài tập cô giao về nhà cho con giảm so với năm trước thì tỏ ra sốt ruột cho “đích” trường chuyên, lớp chọn của các cấp tiếp theo.
Oằn vai đi học  “Phổ cập” học thêm
 Đã hết cái thời học thêm là tự nguyện. Từ chỗ đáp ứng nhu cầu chính đáng, việc dạy thêm, học thêm đang ngày càng tràn lan và biến tướng lạ lùng...
Lịch học thêm dày đặc đã trở thành một phần không thể thiếu trong hoạt động của ngành giáo dục.

Một buổi học thêm sau giờ học của học sinh tại Q.5, TP.HCM - Ảnh: Như Hùng
Sau buổi họp phụ huynh ở Trường THCS Giảng Võ (Hà Nội), một phụ huynh than: “Ban đại diện cha mẹ HS phát cho mỗi phụ huynh một tờ đơn xin học thêm đã đánh máy sẵn. Phụ huynh chỉ việc ký vào phần để trống bên dưới nếu đồng ý với lịch học thêm vào ba buổi sáng/tuần từ 7g30-10g30. Sau đó đến 12g30 tiếp tục tiết học đầu tiên của buổi học chính khóa. Không thể đưa đón con 4 lần/ngày, nhiều phụ huynh đã phải tính đến chuyện cho con mang đồ ăn trưa đi, tìm quán ăn cho con gần trường. Cả lớp đều học nên mình cũng phải theo, không ai dám từ chối lá đơn viết sẵn”.
Không học thêm phải... chịu trách nhiệm
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, một giáo viên chủ nhiệm Trường THCS Đền Lừ (Hà Nội) đã trực tiếp phát hai mẫu đơn xin tự nguyện học thêm cho từng phụ huynh. Một đơn xin học thêm ở lớp do trường tổ chức (trong trường), một đơn xin học lớp của cô giáo tổ chức (bên ngoài trường). Để tăng thêm “sức nặng”, cô giáo cho biết “sẽ mời các giáo viên trực tiếp phụ trách các môn học ở lớp dạy thêm để tiện theo dõi HS” - một phụ huynh kể.
Tại Trường THCS Tăng Bạt Hổ A (Q.4, TP.HCM), phụ huynh tên M., có con học lớp 9, bức xúc: “Chúng tôi cảm thấy bực bội khi giáo viên dạy toán tên là H.U. phát cho mỗi HS một tờ phiếu xác nhận đồng ý cho con đi học thêm tại nhà cô. Học thêm là chuyện tự nguyện, tại sao cô giáo lại gợi ý trắng trợn như thế?”. Trong tờ “gợi ý” có tên gọi là “phiếu xác nhận”, giáo viên đã in sẵn dòng chữ “nay tôi đồng ý cho con tôi tham gia học ngoài giờ môn toán” để phụ huynh ký vào. Ở cuối phiếu có phần riêng dành cho những phụ huynh không cho con đi học “vì nhiều lý do, tôi không đồng ý cho con tôi tham gia lớp học và xin chịu trách nhiệm về việc học tập sa sút của con” và cũng có chỗ trống để phụ huynh ký tên xác nhận. Nếu đồng ý đi học thêm, con chị M. sẽ học một tuần hai buổi tại nhà cô giáo ngay sau giờ học ở trường với học phí 250.000 đồng/tháng.
Một phụ huynh có con học lớp 8 tại Q.Đống Đa (Hà Nội) nói: “Vấn đề không phải chỉ là tốn tiền, mà thời gian tự học, thời gian nghỉ ngơi của con không có. Những buổi phải học thêm hai ca (hai môn) khi về nhà cháu chỉ kịp ăn cơm vội vàng là lại lên đường đi học”.
Mượn trường để tiện dạy thêm
Trong khi đó, HS khối 5 Trường tiểu học Ngô Thì Nhậm (Hà Nội) đã bắt đầu vào cuộc chiến “nâng cao” ngay từ tuần đầu tiên năm học mới. “Ban đầu giáo viên thông báo sẽ tổ chức lớp học thêm từ 17g30-19g30 ngay tại trường cho khoảng 40 học sinh khá giỏi để bồi dưỡng. Khối 5 có ba lớp, nhưng tôi thấy hầu hết phụ huynh đều đăng ký cho con mình học lớp này vì sợ thua thiệt” - chị T., một phụ huynh, cho biết. Theo chị, lớp học này được tổ chức 3 buổi/tuần với mức học phí 200.000 đồng/tháng. Sau khi tan trường, HS sẽ tự lo ăn uống ở bên ngoài để có sức học tiếp buổi học cuối ngày. “Ngoài các buổi sáng học chính khóa, buổi chiều theo thời khóa biểu lịch học bán trú là các môn phụ, ngoại khóa, nhưng nhiều buổi giáo viên vẫn tổ chức dạy thêm ở trường ngay trong buổi hai này. Đương nhiên, gọi là học thêm thì phải đóng thêm tiền” - chị T. bộc bạch.
Để thuận tiện cho việc dạy thêm, học thêm, nhiều giáo viên đã thuê địa điểm gần trường hoặc ngay trong trường để tổ chức dạy học ngoài giờ. Trên thực tế, hình thức dạy thêm này đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận phụ huynh không có điều kiện đón con trong giờ tan tầm. Một phụ huynh có con học lớp 3 Trường tiểu học Cát Linh (Hà Nội) kể: “Theo kế hoạch, bắt đầu từ tháng 10 cô tổ chức lớp học thêm. Giờ học sẽ bắt đầu từ 17g-19g ngay sau khi các cháu tan lớp. Cô giáo đã thuê một địa điểm gần trường và phụ trách luôn việc dẫn các cháu sang điểm học mới sau giờ chính khóa”.
Tại Trường tiểu học Lạc Long Quân, Q.Tân Bình (TP.HCM), ban giám hiệu xác nhận: “Trường không tổ chức dạy thêm nhưng giáo viên có mượn sáu phòng học bán trú để giữ HS và kèm HS sau giờ tan trường, chờ tới lúc phụ huynh đón con về. Việc tổ chức hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện”. Anh L.V., có hai con học tại trường này, cho biết: “Tôi nghĩ học cả ngày đã mệt nhưng không hiểu sao giáo viên lại tổ chức học tiếp. Nếu không tham gia, tôi lo cháu sa sút hơn các bạn và bị đối xử không công bằng”. Tại TP.HCM, việc thuê nhà trọ gần trường hoặc thuê cơ sở vật chất của trường để dạy thêm (dưới hình thức giữ con giúp phụ huynh đón trễ) đang dần phổ biến.
Một phụ huynh Trường THCS Ngô Tất Tố, Q.Phú Nhuận (TP.HCM) bức xúc: “Nhà trường vừa tham khảo ý kiến phụ huynh về việc mở các lớp ôn bài tại trường sau giờ học với mức phí 75.000 đồng/HS/tháng vì giờ tan học buổi hai hiện nay là 15g45, phụ huynh chưa thể đón con ngay. Nhưng tôi cho rằng đây chỉ là một hình thức dạy thêm mà thôi, tham gia cũng khó mà không tham gia cũng khó cho phụ huynh chúng tôi”.
Thời gian biểu của H. (học sinh Trường THCS Giảng Võ, Hà Nội):
6g sáng dậy, 7g15 có mặt tại trường, 7g30 vào học. Khoảng 12g tan học, đi từ trường đến chỗ học thêm để học liên tiếp hai ca. Có hai phòng học (thuê nhà dân) cạnh nhau, hai cô giáo lần lượt đổi chỗ cho nhau dạy ở hai lớp đó. Thứ hai học toán, tiếng Anh. Thứ tư học văn, lý, hóa. Thời gian kéo dài từ 14g-17g. Thứ sáu học toán, tin, từ 13g30-17g. Giáo viên dạy thêm là những người dạy trên lớp buổi sáng. Ngoài ra, H. và nhiều HS trong lớp còn học tại các “lò luyện” ở trường sư phạm, trường chuyên ngữ vào cuối tuần và các buổi tối.
Cũng tại phụ huynh
Tôi cảm thấy rất bức xúc vấn đề này mặc dù đã được toàn xã hội nói rất nhiều trong suốt mấy năm qua về chuyện học thêm. Tuy nhiên, trước khi chờ ngành giáo dục có cách giải quyết thì tôi nghĩ chính các bậc phụ huynh hãy cứu lấy con mình và chính mình.
Tôi biết rất nhiều người phải nói là 95% các phụ huynh đều đang bị bệnh thành tích và hão huyền về đứa con của mình sẽ là kiệt xuất, thiên tài... Họ chẳng hề để ý hay quan tâm hay tìm tòi sách để đọc về vấn đề phát triển tâm sinh lý của trẻ trong từng độ tuổi để có thể phù hợp với tải lượng học quá nặng hiện nay của con mình. Ngoài giờ học ở trường khá vất vả, họ không hề thương con mình bằng cách cho con nghỉ ngơi, có thời gian phục hồi năng lượng cho ngày học hôm sau, hoặc ít ra là học ở nhà vào buổi tối.
Cũng chính họ tự làm khổ mình, cứ hì hục, tất tả chạy đón - đưa con đi học thêm chỗ này, chỗ khác, chạy từ trường về nhà, rồi chạy ngược đến chỗ học thêm. Chưa nói đến việc tăng chi phí học hành cho con. Trong khi đó, lẽ ra họ phải học cùng con, tìm cách giải quyết bài học với con. Họ lại thác mặc cho chuyện đi học thêm ngoài giờ sẽ giải quyết được bài văn, bài toán cho con. Họ không hề biết rằng đó là kiểu học vẹt, thầy/cô giáo cho làm bài, học bài trước để ngày mai thầy/cô ra đề giống y để học sinh đi học thêm được điểm cao.
Dĩ nhiên, xã hội cần lên án những người đứng trên bục giảng đã không làm đúng vai trò của người làm nghề giáo dục. Tôi biết nhiều thầy/cô cố tình ra bài tập hoặc đề đánh đố để cho học sinh buộc phải đi học thêm thì mới làm được mà lẽ ra nhiệm vụ của họ là phải giảng dạy phương pháp làm bài ngay trong chính giờ học chính khóa. Tôi hoàn toàn không đồng ý với cái cách biện luận đồng lương của giáo viên không đủ, còn quá thấp.
Hoàn toàn không đúng. Có rất nhiều giáo viên cũng có thu nhập thấp nhưng không phải kiếm tiền bằng cách này. Cũng là giáo viên, các tỉnh lẻ và vùng quê có thu nhập còn thấp hơn, nhưng những chuyện nhiêu khê về học thêm lại xảy ra ở các thành phố. Gần đây nhiều người đã chứng minh thu nhập của giáo viên không hề thấp nếu so với thu nhập trung bình của xã hội và so với rất nhiều nghề khác. Bản thân tôi cũng là giáo viên, nhưng tôi chưa bao giờ rên khổ vì thu nhập.
Đã theo nghề thì phải làm cho đúng đạo, đúng trách nhiệm và đúng với sự phân công của xã hội. Nếu chịu không được vì đồng lương thấp thì hãy nghĩ nghề giáo viên và đi tìm nghề khác có thu nhập cao hơn. Cốt lõi nhất là chính các bậc phụ huynh phải đoàn kết, hợp sức và thẳng thắn trao đổi vấn đề học thêm với chính BGH Trường, giáo viên chủ nhiệm lớp.
Hãy từ bỏ cái kiểu chạy theo thành tích càng sớm càng tốt! Các phụ huynh có muốn con em mình đủ sức khỏe và phát triển đầy đủ, hoàn thiện về mặt tinh thần, thể lực để còn học tiếp những bậc học về sau hay là chỉ thi thố điểm cao thấp ở cấp 1, 2,3 rồi lên đến đại học sẽ hụt hơi và què quặt về trí tuệ?
Các vị cứ chịu khó tìm hiểu thử xem học sinh ở các nước có đi học thêm và cố tìm cách giải các bài toán hóc búa như học sinh Việt Nam hay không? Và học sinh Việt Nam học cả ngày và đêm, học nhiều như thế thì có giỏi hơn học sinh ở các nước hay không?

Nguyên Khoa
Học để đi thi

Có cách nào đó để phụ huynh hiểu ra tác hại của việc này. Chỉ đơn giản chuyện dạy tiếng Anh. Hà Nội có những lò luyện thi tiếng Anh chỉ chuyên dạy ngữ pháp để thi đại học. Quá đông người đăng ký học khiến phụ huynh, học sinh phải xếp hàng, thậm chí phải thi đầu vào. Một lò luyện chỉ nhận những học viên có trình độ khá trở lên để gạt bớt học viên.
Nhưng theo một số học sinh thích học tiếng Anh giao tiếp, nghe nói thì rất ít học sinh phổ thông quan tâm và cũng ít phụ huynh bỏ tiền cho con học nghe nói, giao tiếp tiếng Anh. Lý do chủ yếu là “phải học để đi thi trước đã”. Riêng môn tiếng Anh có học sinh lớp 12 đã phải học đến 2-3 nơi chưa kể học ở trường, nhưng hầu hết là lò luyện thi.

Nên rạch ròi

Nếu giáo viên vì quyền lợi của mình mà gây sức ép để học sinh phải học thêm, giáo viên ở trên lớp dạy sơ sài khiến học sinh không hiểu bài, chỉ ở lớp dạy thêm mới dạy hay, giáo viên trù dập học sinh vì không đi học thêm…thì đó là việc không thể chấp nhận được với bất cứ lý do gì.
Vì nghề nào ở VN bây giờ cũng có những khó khăn vất vả, ít có nghề sống đủ được bằng đồng lương thuần túy. Nếu ai cũng viện cớ đó để làm sai thì sao được. Hơn nữa, đặc thù của nghề giáo, người thầy phải có nhân cách thì mới dạy được người khác. Tuy vậy, tôi cũng đồng ý với ý kiến bạn Bù Đăng về chuyện lương giáo viên quá thấp. Cách đây không lâu tôi ngỡ ngàng khi một cô giáo là tổ trưởng tổ văn ở trường điểm Hà Nội, là một giáo viên dạy giỏi nhất trường, còn 2 năm nữa là nghỉ hưu nhưng lương chỉ có 3 triệu đồng/tháng.
Cô giáo đó cho biết giáo viên trẻ mới ra trường lương còn tệ hơn. Nhưng giáo viên trẻ chưa vướng bận gia đình, còn nhiều nhiệt huyết nên chưa bỏ nghề, giáo viên già gắn bó quá sâu với nghề nên không nỡ. Cô giáo mà tôi gặp cũng đi dạy thêm nhưng cô có một nguyên tắc là không dạy những học sinh mà cô phụ trách dạy ở trường (vì cô nói những học sinh này cô đã dạy trong giờ chính khóa rồi), cô không ép buộc học sinh học vì cô quá giỏi, nhiều khi nhà chật, hết chỗ cho học sinh ngồi, phụ huynh mang bàn ghế đến để ở cổng, cô đành phải nhận.
Lớp học thêm có khoảng 20 em thì có tới 5-6 em cô dạy miễn phí vì những lý do khác nhau. Tôi nghĩ “dạy thêm” như cô giáo mà tôi gặp thì không có tội lỗi gì cả. Người ta hoàn toàn kiếm sống dựa vào năng lực lao động chính đáng. Nhưng không phải ai cũng như thế. Chúng ta nên rạch ròi trong chuyện này, không nên vơ đũa cả nắm nhưng cũng không nên dung túng cho chuyện sai trái.

Hoa Hoa   


Ra đề bài tuyển sinh cho các trường


  Cải cách tuyển sinh và thay đổi đầu tư cho giáo dục là nội dung của cuộc họp ngày 4/10 giữa Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận với lãnh đạo UBND TP.HCM cùng hiệu trưởng để lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020.



Đối xử với tuyển sinh "ba chung" như thế nào?

Ông Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM cho rằng nên khai tử việc tuyển sinh “ba chung” sau 10 năm thực hiện vì nó đã quá già nua.

"Chất lượng giáo dục ĐH đã giao cho các trường sàng lọc trong quá trình đào tạo và đầu ra thì cớ gì Bộ “ôm” đầu vào làm chi cho cực khổ!", báo Pháp luật TP.HCM dẫn lời ông.

Ông Lê Bảo Lâm, Hiệu trưởng ĐH Mở TP.HCM thì cho rằng việc thi theo các khối A, B, C, D như hiện nay đã không còn phù hợp với yêu cầu đào tạo của từng ngành.

Trong khi đó, ông Võ Tấn Sơn, Hiệu trưởng ĐH Y dược TP.HCM, kiến nghị Bộ GD-ĐT cần có lộ trình để thay đổi các môn thi cho phù hợp với từng ngành đào tạo ĐH, tờ Thanh Niên cho biết.

Tuy nhiên, ông Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG TP.HCM nói rất khó bỏ “ba chung” vì đã làm 10 năm nay rồi, khi bỏ phải có cách thay thế khác nhưng hiện nay chưa có cách nào.

Bà Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng ĐH Luật TP.HCM phân tích thêm: Không phải các trường ĐH, các ngành đào tạo đều cần phải thi đầu vào. Mỗi trường ĐH có cơ chế sàng lọc tự thân trong quá trình đào tạo, để đảm bảo chất lượng đầu ra. Đây mới là điều quan trọng. Vì vậy, có ngành cần phải thi đầu vào, có ngành không cần phải thi mà thí sinh chỉ cần đăng ký và được xét tuyển theo học.

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cho biết: Bộ sẵn sàng lắng nghe góp ý phương thức tuyển sinh khác “ba chung” từ các trường. Khi chúng ta thống nhất được phương án tuyển sinh nào ít tốn kém, có lợi cho thí sinh, đảm bảo chất lượng đầu vào sẽ thực hiện. Và phương án tuyển sinh làm như thế nào để không lập lại việc bắt học sinh đi học luyện thi, công khai để toàn xã hội giám sát và phải an toàn.

Đừng để giáo viên phải xoay xở với cơm gạo áo tiền


Những nhà lãnh đạo giáo dục trăn trở với bức xúc hiện nay nhất mà xã hội đồng tình là vấn đề tiền lương của giáo viên.

Ông Nguyễn Bác Dụng, Hiệu trưởng Trường chuyên Trần Đại Nghĩa, cho rằng: Muốn thầy và trò cùng khám phá, phát huy cả tâm lực và trí lực thì Nhà nước phải có chế độ đãi ngộ họ, giáo dục bây giờ trông vào sự đóng góp của nhân dân để phát triển thì không ổn lắm, báo Pháp luật thành phố ghi lời ông.

TS Huỳnh Công Minh, nguyên Giám đốc Sở GD&ĐT TP.HCM thẳng thắn: Tôi thấy giáo dục đang được đầu tư giả chứ không thật. Đầu tư có đầu tư thật thì mới có dạy thật, ngân sách phân bổ chỉ đủ về mặt hành chính mà không có đủ để giáo viên trang trải đời sống. Hãy mạnh dạn đầu tư xứng tầm với “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đừng để giáo viên phải trồi đạp, xoay xở với cơm áo gạo tiền từ các khoản đóng góp này nọ của phụ huynh.

Đồng quan điểm này, TS Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng Trường ĐH Nguyễn Tất Thành cho rằng: Muốn phát triển nâng cao chất lượng giáo dục cần phải quan tâm đến đội ngũ thầy cô giáo, phải luôn coi giáo viên là linh hồn và trái tim của nhà trường. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, trường ĐH cũng như một rạp hát nếu chương trình hay, diễn viên giỏi thì khán giả sẽ đến đông. Ở trường ĐH cũng vậy phải có môi trường làm việc tốt, chính sách đãi ngộ tốt thì mới giữ chân được giáo viên, báo Thanh Niên dẫn lời ông.

Việc tuyển sinh ở các trường sư phạm đang suy giảm cũng là một vấn đề nêu lên tại cuộc họp. Ông Võ Tấn Sơn, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược TP.HCM nói: Tuyển sinh sư phạm ở các trường ĐH đang suy giảm chất lượng, cần bàn tay điều hành của Nhà nước và phải coi sư phạm là “máy cái”. Bộ nên kiến nghị nhà nước đặc biệt ưu tiên đầu tư trọng điểm cho các trường sư phạm. Đầu tư tốt nhất và trả lương cao nhất cho ngành sư phạm để khuyến khích người giỏi vào ngành sư phạm.

Chính vì đồng lương không thoả đáng nên cũng dẫn tới hiện tượng giảng viên các trường ĐH “đinh” chạy sô quá nhiều vì ở nơi đó không ai kiểm tra, đánh giá họ và có thu nhập cao, ổn định. Nhiều hiệu trưởng lo ngại giảng viên mà lo đi dạy ngoài nhiều sẽ xuống cấp về chất lượng.

Trong khi đó, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng cho rằng: các trường ĐH đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ là để cả xã hội thụ hưởng chứ không riêng ĐH, nơi đào tạo họ thụ hưởng. Vì vậy, không có chuyện giảng viên đi dạy thêm ở các trường tư phải xin phép hiệu trưởng.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận nói: Hiện nay các trường phổ thông và cả ĐH đang thừa giáo viên, giảng viên kém chất lượng trong khi các thầy giáo giỏi, tâm huyết thì thiếu. Bộ khuyến khích các trường mở rộng cho giảng viên tham gia giảng dạy, hợp tác nhưng các trường cần có nội lực, tự xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu cho mình.

Lại xới chuyện cải cách giáo dục

- Sáng 27/9, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức tọa đàm “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo”. Trong  phiên họp thường kỳ tháng 9 diễn ra từ 25 - 26/9, Chính phủ cũng thảo luận về dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011- 2020.
Trong khi các cựu trào đề nghị lập ủy ban cải cách giáo dục với những đề xuất mang tính "thiết kế hệ thống" thì các thành viên của nội các mới bám sát vào những giải pháp cụ thể cho mục tiêu "giao diện mới của giáo dục năm 2020".
Cả đề xuất "cải cách giáo dục" và xây dựng một chiến lược dài hơi đều là những công việc dang dở mà mỗi nhóm kiên trì theo đuổi từ khi khởi xướng, năm 2008. Dưới đây là các ý kiến được xới lên.
Dưới đây là những ý kiến được trình bày tại các buổi thảo luận.



Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình: Thay đổi cách nghĩ, cách làm Thay đổi căn bản và toàn diện một nền giáo dục là công trình lớn của quốc gia, không thể một vài năm mà xong.  Trước mắt, cần có Ủy ban Cải cách giáo dục bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia trong nước và nước ngoài, am hiểu và có kinh nghiệm về giáo dục và các lĩnh vực liên quan đến giáo dục.
Muốn giáo dục đổi mới nhất thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm giáo giáo dục. Muốn chuyển biến căn bản và toàn diện thì nhất thiết phải cải cách.
Vấn đề hết sức cấp bách hiện nay là tình trạng mất cân đối giữa ba bộ phận chính của hệ thống giáo dục là phổ thông, nghề nghiệp và đại học. Do đó, cần điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của mỗi bộ phần và cả hệ thống.
Cần phải rũ bỏ hình thức áp đặt, thay vào đó, hết sức coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tư duy độc lập, sáng tạo cho học sinh.


Các đại biểu dự hội thảo ngày 27/9 phân tích, cách cắt xén chương trình để “giảm tải” cập rập như vừa thực hiện đầu năm học này, thì việc làm chương trình sắp tới khó bảo đảm được chất lượng như mong muốn.
PGS.TS Trần Quốc Toản: Ba câu hỏi lớn Cần phải làm rõ và trả lời 3 câu hỏi: Vì sao lại phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục? Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục là đổi mới thế nào? Làm thế nào để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục?
Đây không phải là những sửa đổi, điều chỉnh nhỏ lẻ, cục bộ, mang tính bề mặt. Tương quan giữa giáo dục nhân cách, cung cấp kiến thức và giáo dục kỹ năng có cần thay đổi không? Thay đổi như thế nào? Tỷ lệ và tương quan 3 mặt giáo dục đó ở các cấp Tiểu học, THCS,THPT có cần thay đổi không?... Giảm tải giáo dục phổ thông không được nghiên cứu thấu đáo trong những tương quan trên thì việc thực hiện sẽ chỉ là sự “chữa cháy”.



GS Hoàng Tụy: Cải tạo cấu trúc Khi hệ thống đó lâm vào khủng hoảng triền miên, thì những điều chỉnh cục bộ, qua cơ chế phản hồi, kiểu như đổi mới vụn vặn mấy năm qua chẳng những không có tác dụng mà còn có thể làm tình hình tồi tệ, rối ren thêm. Lối ra duy nhất lúc này là cải tạo cấu trúc, xây dựng lại từ gốc, thay đổi cả thiết kế hệ thống.
Cụ thể, cần thay đổi cơ bản cách học và thi; cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục phổ thông và dạy nghề; cải cách mạnh mẽ, hiện đại hóa đại học. Vấn đề cuối cùng nhưng then chốt nhất là chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giáo chức.
GS.TSKH Vũ Ngọc Hải, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam: Chính sách đặc biệt thu hút nhà giáo
Cần chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục theo giải pháp then chốt để nâng cao chất lượng giáo dục. Có chính sách đặc biệt nhằm thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước, đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài về nước tích cực tham gia quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học.



Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận: Đã có 7 giải pháp chiến lược Mục tiêu tổng quát phát triển giáo dục đến năm 2020: Nền giáo dục Việt Nam được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao; giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành được chú trọng; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân.
Từ mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể  được xác định như sau:
Hoàn thành mục tiêu phổ cập cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015, đến năm 2020 có ít nhất 30% trẻ trong độ tuổi nhà trẻ và 85% trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non...
Đến năm 2020, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; có 70% trẻ em khuyết tật được đi học.
Đến năm 2020, có 25% học sinh tốt nghiệp THCS và 30% tốt nghiệp THPT  tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo khoảng 350-400 trên một vạn dân; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học khoảng 70%.
7 giải pháp đề ra gồm: Đổi mới quản lý giáo dục; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục; tăng cường các nguồn đầu tư cho giáo dục, gắn đào tạo với sử dụng, với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội; tăng cường hỗ trợ giáo dục đối với các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội; phát triển khoa học giáo dục và cuối cùng là mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục.



Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh: Đừng để chiến lược mang tính nghị quyết Nội dung của chiến lược cần được cụ thể hóa hơn, làm cho nội dung chiến lược không mang tính nghị quyết; đồng thời lưu ý tới việc cân đối nguồn lực trong quá trình thực hiện.



Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ: Sử dụng ngân sách thế nào? Chiến lược cần thể hiện rõ việc quản lý, phân bổ và sử dụng như thế nào để nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục-đào tạo đạt hiệu quả tốt nhất; đồng thời cũng làm rõ hơn những tồn tại, hạn chế của nền giáo dục trong những năm qua.



Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát: ĐH không chỉ là trung tâm đào tạo Chiến lược cần quan tâm tới việc đổi mới mô hình quản lý giáo dục, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, không nên coi các trường học chỉ là trung tâm đào tạo mà phải là cả trung tâm nghiên cứu khoa học.
Trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng, trong giải pháp thứ 7 về phát triển giáo dục không nên viết nội dung là “mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục” mà nên thay cụm từ “hợp tác quốc tế về giáo dục” bằng cụm từ “hội nhập quốc tế về giáo dục".



Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan: Giáo dục Việt Nam tăng trưởng theo chiều rộng Mô hình tăng trưởng giáo dục của Việt Nam hiện nay theo chiều rộng, quy mô giáo dục được mở rộng quá cỡ, nhiều trường công lập mở ra, chạy theo lợi nhuận là chính; xu hướng thị trường hóa giáo dục đang chi phối; có những hạn chế trong định hướng giáo dục-đào tạo, trong quy hoạch nguồn nhân lực; quản lý giáo dục thiếu chuyên nghiệp; sự gắn kết không chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội; trình độ giáo viên ở vùng sâu, vùng xa thấp… đây là những hạn chế lớn của nền giáo dục, làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục.
Vì vậy, cần có đổi mới trong quy hoạch nguồn nhân lực, có quy hoạch ngành giáo dục, đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách về giáo dục; thay đổi tư duy nhìn nhận về bằng cấp, khoa cử, tránh áp lực xã hội về bằng cấp…Đi liền với đó là rà soát lại đội ngũ giáo viên, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo viên; rà soát lại việc tuyển sinh của các trường đại học.



Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Muốn phát triển theo chiều sâu Chiến lược phát triển giáo dục là vấn đề lớn, vấn đề đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; muốn xóa đói giảm nghèo, muốn phát triển theo chiều sâu, muốn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… tất cả là do yếu tố con người, là giáo dục.
Chiến lược này phải thể hiện được tư tưởng chủ đạo là giải quyết được những tồn tại, yếu kém hiện nay của nền giáo dục, nhất là những tồn tại, yếu kém ở các cấp học về cơ chế tài chính, quản lý, sách giáo khoa, giáo trình; chất lượng giáo dục đại học, tình trạng thiếu giảng viên, thiếu phòng thí nghiệm…, cùng với đó là cần định hướng rõ về vấn đề đào tạo nghề.
  • Vân Phong (tổng hợp từ Thông tấn xã Việt Nam, Chính phủ, Giáo dục Thời đại, Dân Trí, Tiền Phong)
 Phá sản “hai không”?

"Chúng ta đang chống lại bệnh thành tích nhưng cách đánh giá hiện nay (qua thi cử, qua các chỉ tiêu, tỉ lệ) khiến các địa phương phải chạy theo thành tích", ông Hồ việt Hiệp, nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT An Giang, nhận định.
Hơn 50 tỉnh thành có tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp trên 90%. Dẫn đầu là Nam Định với tỉ lệ 99,89%. Cũng ở tỉnh này, 100% học sinh hệ giáo dục thường xuyên đậu tốt nghiệp. Nhiều chuyên gia giáo dục đặt vấn đề có cần phải tổ chức kỳ thi tốt nghiệp như hiện nay.
Học sinh Trường Marie Curie, TP.HCM chúc mừng nhau sau khi biết kết quả thi tốt nghiệp - Ảnh: Như Hùng

Theo số liệu Tuổi Trẻ thu nhận được, khoảng 37 tỉnh thành có tỉ lệ tốt nghiệp trên 95%, trong đó có 12 tỉnh thành tốt nghiệp đạt trên 99%. Dẫn đầu là Nam Định 99,89%, kế tiếp là Ninh Bình 99,78%.
Vụ "bắt tay" nới lỏng chấm thi tốt nghiệp:
Chưa kết luận vì nhạy cảm
Hôm qua 21-6, Bộ GD-ĐT đã nhận được báo cáo của các tỉnh ĐBSCL về việc tổ chức họp thống nhất phương án chấm các môn thi tự luận. Bộ GD-ĐT đã tổ chức họp để phân tích tình hình trên cơ sở các báo cáo của các tỉnh, nhưng do đây là vấn đề nhạy cảm, liên quan đến quyền lợi của nhiều thí sinh nên Bộ GD-ĐT chưa thể có kết luận về việc này.
Tăng trên 68%
Đáng nói là những tỉnh thuộc các khu vực khó khăn năm nay có tỉ lệ tốt nghiệp nhảy vọt. 12/13 tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc năm nay đều có tỉ lệ tốt nghiệp hệ THPT từ trên 91% trở lên.
Gây ngạc nhiên cho nhiều người là Tuyên Quang với tỉ lệ 99,76%, vươn lên đứng thứ ba cả nước. Điện Biên từ một tỉnh đứng thứ 63 cả nước năm 2010 với 71% đậu tốt nghiệp thì năm nay vươn lên 95,65%. Sơn La từ vị trí cuối bảng xếp hạng năm 2009, sau hai năm cũng vọt lên 97,79%. Bắc Kạn tuy là tỉnh duy nhất của khu vực miền núi phía Bắc đạt kết quả tốt nghiệp dưới 90% (88,70%) nhưng so với năm 2010, tỉ lệ này đã tăng gần 20%.
Khu vực ĐBSCL năm nay cũng có tỉ lệ tốt nghiệp hệ THPT tăng cao với 10/12 tỉnh có kết quả tốt nghiệp đạt trên 90%, trong đó có ba tỉnh đạt trên 97%. Hai tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre có tỉ lệ tốt nghiệp thấp hơn so với các tỉnh trong khu vực (86,56% và 84,15%) nhưng so với chính các tỉnh này năm 2010 cũng cao hơn. Trong đó, Bến Tre là một trong hai tỉnh ở ĐBSCL không tham gia thỏa thuận hướng dẫn chấm thi các môn tự luận (tỉnh còn lại là Tiền Giang). Ở khu vực này, Hậu Giang là tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp tăng nhiều nhất, từ 88,67% lên 97,97%.
Ở hệ giáo dục thường xuyên, tỉ lệ tốt nghiệp năm nay còn tăng rõ hơn. Trong số các tỉnh thành đã gửi báo cáo về Bộ GD-ĐT, có khoảng 31 tỉnh thành có tỉ lệ tốt nghiệp đạt từ 91% trở lên, trong đó có 12 tỉnh thành đạt 99% trở lên. Nam Định đạt tỉ lệ tốt nghiệp 100% ở hệ giáo dục thường xuyên. Theo số liệu từ các tỉnh thành, tỉ lệ tốt nghiệp hệ giáo dục thường xuyên năm nay tăng từ 15% đến trên 60%. Điển hình là Điện Biên có tỉ lệ tốt nghiệp 88,86%, tăng trên 68% so với năm 2010.
Trong số các tỉnh có báo cáo, chỉ có hai tỉnh là An Giang và Tiền Giang năm nay có tỉ lệ tốt nghiệp hệ giáo dục thường xuyên dưới 50%. Nhiều tỉnh thành có nhiều trung tâm giáo dục thường xuyên tốt nghiệp 100%, như Bắc Giang 11/16 trung tâm, Ninh Bình 6/8 trung tâm, Bắc Ninh 6/14 trung tâm.
Tỉ lệ có từ đầu năm
Tỉ lệ tốt nghiệp cao hẳn nhiên tỉnh nào cũng vui. Nhưng đã đến lúc không còn nhiều người dám tin tỉ lệ này phản ánh được hiệu quả giáo dục tỉnh đó. Bởi lẽ, nói như một giám đốc sở phía Nam, “nếu coi tỉ lệ đậu là hiệu quả giáo dục, bộ nên tuyên dương những nơi có tỉ lệ tốt nghiệp giáo dục thường xuyên xấp xỉ hoặc đạt 100%, cao hơn cả tỉ lệ tốt nghiệp THPT của tỉnh đó. Và có lẽ cả nước phải đến những nơi đó để học tập kinh nghiệm, bí quyết!”.
Vị giám đốc trên dám nói điều này bởi không phải đến năm nay mà từ nhiều năm trước, người ta đã phát hiện có tình trạng buông lỏng trong khâu coi thi để đẩy tỉ lệ đậu tốt nghiệp của địa phương lên cao. Vì sao các tỉnh cứ chạy đua tỉ lệ ảo này? Ở nhiều tỉnh thành, tỉ lệ đậu tốt nghiệp đã được đưa vào kế hoạch thi đua từ đầu năm học. Khi tất cả các tỉnh thành đều thấp như nhau thì không sao. Nếu tỉnh bạn tăng vọt mà tỉnh mình (vì coi thi thật thà, nghiêm túc) mà tỉ lệ thấp, lãnh đạo sở sẽ khó nói chuyện với cấp trên.
Giám đốc một sở GD-ĐT khác tại ĐBSCL lý giải: “Cách xếp hạng hiện nay khiến giám đốc sở bị áp lực rất lớn với dư luận và chính quyền địa phương, từ đó khó mà trung thực được”.
Ông Hồ Việt Hiệp, nguyên giám đốc Sở GD-ĐT An Giang, cho biết: “Từ kỳ thi năm ngoái, một số tỉnh tuy không có văn bản như các tỉnh ĐBSCL nhưng đã “hợp tác” chấm chéo nhằm đối phó với Bộ GD-ĐT và để có kết quả đẹp. Qua đó cho thấy cuộc vận động “hai không” đến nay không còn nữa, các tỉnh chủ yếu cục bộ địa phương, ai cũng muốn bảo vệ lợi ích của tỉnh mình. Chúng ta đang chống lại bệnh thành tích nhưng cách đánh giá hiện nay (đánh giá qua thi cử, qua các chỉ tiêu, tỉ lệ) khiến các địa phương phải chạy theo thành tích”.
Thi thế này thì thi làm gì?
Thực hiện không tốt sẽ thành dối trá
“Kết quả thi tốt nghiệp THPT tùy thuộc ba yếu tố: đề thi - đáp án (dễ hay khó), coi thi (nghiêm túc hay thả lỏng) và khâu chấm thi như thế nào. Nếu thực hiện nghiêm túc cả ba khâu này, tỉ lệ tốt nghiệp mới thể hiện đúng hiệu quả chất lượng từng địa phương. Nếu thực hiện không tốt một trong ba khâu trên, tỉ lệ tốt nghiệp sẽ trở thành chuyện thành tích, tiêu cực và dối trá trong giáo dục. Nếu có tỉ lệ cao, khoan khen ngợi, tỉ lệ thấp cũng đừng vội phê bình”.
Ông Nguyễn Trọng Nhân (trưởng phòng khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục Sở GD-ĐT Tây Ninh)
Từ những lý do trên, ông Hồ Việt Hiệp cho rằng không cần thiết tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT nữa, tốn kém mà không phản ánh được thực chất bởi tỉnh nào cũng gần 100%. Các tỉnh nếu tổ chức thi chắc tỉ lệ cũng như vậy, thế thì tổ chức kỳ thi quốc gia làm gì?
Một cựu giám đốc sở GD-ĐT khu vực miền Trung nhận xét: “Mấy năm nay, người trong ngành đã thấy chấm chéo không giải quyết vấn đề gì. Trước sau rồi Bộ GD-ĐT cũng phải bỏ, vì phiền phức, tốn kém. Một kỳ thi cồng kềnh nhưng không hiệu quả đến lúc phải tiếp tục thay đổi”. Theo vị lãnh đạo này, năm 2011 chỉ riêng kinh phí chi cho kỳ thi của một tỉnh đã đến trên 10 tỉ đồng. Tính chi phí của cả nước còn lớn đến đâu, nhưng điều toàn dân mong đợi là “kết quả thực chất” vẫn không giải quyết được.
Về điều này, GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: “Ngay từ đầu khi Bộ GD-ĐT tiến hành thi cụm, chấm chéo tôi đã nghĩ là không thể giải quyết được vấn nạn thi cử, chỉ tạo thêm tốn kém, phiền phức”. Còn GS Nguyễn Lân Dũng nhận xét: “Thi cụm, chấm chéo chỉ là giải pháp đối phó, tốn kém mà không đạt được mục đích là có một kết quả đánh giá thực chất”.
GS Văn Như Cương thẳng thắn bày tỏ: “Khi bộ có sáng kiến thi cụm, chấm chéo, tôi cũng chờ đợi hiệu quả của việc này nhưng khó có thể nói giải pháp này có hiệu quả khi đến trên 50 tỉnh thành có kết quả thi cao, nhiều nơi cao đột biến”.
Trao đổi với Tuổi Trẻ xung quanh việc nên hay không nên có kỳ thi tốt nghiệp THPT khi tỉ lệ tốt nghiệp đã đạt đến sát ngưỡng 100%, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho rằng kỳ thi tốt nghiệp không chỉ nhằm một việc là đánh giá học sinh mà còn để đánh giá mặt bằng chất lượng giáo dục của các địa phương. Kết quả thi tốt nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng để soi rọi và tác động trở lại việc dạy học, việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông trên toàn quốc. Mục đích của kỳ thi không phải để chăm chăm đánh trượt học sinh mà là để các nhà trường, giáo viên, học sinh cố gắng.
Giao cho địa phương
Trước thực tế này, ông Trần Thanh Đức - giám đốc Sở GD-ĐT Tiền Giang - cho rằng không thể thấy kết quả quá cao mà bỏ thi tốt nghiệp THPT, việc bỏ thi khi chưa có những chuẩn bị cần thiết là không khoa học. “Theo quan điểm cá nhân tôi thì từ từ không cần tổ chức một kỳ thi cấp quốc gia nữa mà giao cho từng địa phương tổ chức. Để thực hiện việc này, cần phải có nhiều giải pháp song song, trong đó có việc cải tiến thi tuyển sinh ĐH-CĐ” - ông Đức đề nghị.
Ông Hồ Việt Hiệp cũng đề nghị bộ giao lại cho các địa phương tổ chức sát hạch để tập trung cho kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ nhằm giảm bớt sự nặng nề, tốn kém. Ông Hiệp cho rằng: “Chúng ta đã bỏ thi tốt nghiệp THCS và kết quả giáo dục vẫn đảm bảo. Việc đánh giá chất lượng giáo dục qua kết quả tốt nghiệp là không khách quan bởi chất lượng phải đánh giá trên nhiều yếu tố khác nữa”.
Đồng tình với việc “không nên bỏ thi” trong bối cảnh hiện tại, GS Nguyễn Minh Thuyết bình luận: “Nếu kết quả tốt nghiệp 98-99% kia là thực chất thì quá tốt và tôi nghĩ cũng không cần thiết phải tổ chức một kỳ thi quốc gia tốn kém làm gì. Nhưng vấn đề ở chỗ kết quả đó không thực chất. Vì vậy thay vào việc bàn chuyện bỏ thi thì nên tính phương án làm gì để kỳ thi gần với thực chất hơn. Kỳ thi nghiêm túc trong tình thế chất lượng giáo dục còn chưa ổn sẽ giúp ngành giáo dục có cơ sở điều chỉnh chương trình - sách giáo khoa, phương pháp dạy học, đánh giá, đầu tư vào những khâu còn yếu, thiếu...”. GS Thuyết đề nghị nên giao kỳ thi về cho các địa phương tự chịu trách nhiệm. Vì khi phải tự chịu trách nhiệm, người ta sẽ có trách nhiệm cao hơn. Bộ GD-ĐT nên lo các việc to lớn hơn là ôm quá nhiều việc như hiện nay.
GS Văn Như Cương cũng có quan điểm đồng nhất với GS Thuyết khi cho rằng “nên đưa kỳ thi về địa phương, để các sở GD-ĐT tổ chức thi, ra đề, chấm thi”. Và như vậy hoàn toàn có thể chấp nhận việc đề thi tốt nghiệp ở Hà Nội khó hơn Lai Châu do điều kiện, chất lượng giáo dục khác biệt. Nếu làm như thế, kết quả thi sẽ thực chất hơn bây giờ.
Vượt ngưỡng trước “hai không”
Trước tình trạng thiếu thực chất trong thi cử, với nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra trên cả nước khiến tỉ lệ tốt nghiệp từ năm 2006 trở về trước cao ngất ngưởng, năm 2007, lãnh đạo Bộ GD-ĐT đã phát động cuộc vận động “Nói không với bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử”, gọi tắt là “hai không". Nhiều người đã ví “hai không” như luồng gió mới làm lung lay tình trạng trì trệ của giáo dục nước nhà thời gian đó. Tỉ lệ tốt nghiệp THPT năm 2007 tụt thê thảm xuống còn 66,72%.
Bàng hoàng, nhưng nhiều người trong ngành GD-ĐT đã vui mừng vì hi vọng chất lượng giáo dục từ đó sẽ thay đổi. Năm 2008, tỉ lệ tốt nghiệp nhích lên 75,96%. Năm 2009, để củng cố kết quả của “hai không”, Bộ GD-ĐT áp dụng phương thức “thi cụm, chấm chéo”. Tỉ lệ tốt nghiệp năm đó vẫn tăng lên 83,8%. Năm 2010, tỉ lệ tốt nghiệp là 92,57%.
Theo thông tin chúng tôi nắm được, năm nay tỉ lệ tốt nghiệp THPT có khả năng sẽ vượt cả năm 2006! Năm năm đổi mới thi cử để quay lại tỉ lệ tốt nghiệp như trước, theo Bộ GD-ĐT, đó là nỗ lực của ngành GD-ĐT trong việc khắc phục tình trạng học sinh yếu, kém, nâng chất lượng dạy học. Nhưng nhiều người trong cuộc lại đang băn khoăn khi cho rằng đó là bằng chứng sự phá sản của “hai không”.
“Bắt tay” nới lỏng chấm thi THPT
* Bộ GD-ĐT ra thông cáo báo chí : Không cho phép có hướng dẫn chấm thi khác
TT - Ngay sau kỳ thi tốt nghiệp THPT, lãnh đạo sở GD-ĐT 11 tỉnh thành khu vực ĐBSCL đã nhóm họp, bàn bạc và thống nhất đưa ra hướng dẫn chấm thi riêng cho khu vực này theo chiều hướng nới lỏng nhằm có kết quả đẹp!
Tất cả các môn thi tự luận của hai hệ đào tạo trung học phổ thông (THPT) và giáo dục thường xuyên đều có hướng dẫn chấm thi “đặc biệt”. Được tiếp cận với các biên bản thống nhất hướng dẫn chấm thi này, một cán bộ thanh tra chấm thi tại ĐBSCL khẳng định hướng dẫn mở hơn so với hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
Biên bản thống nhất hướng dẫn chấm thi của 11 tỉnh thành tại ĐBSCL và công văn đồng ý việc tổ chức họp của Bộ GD-ĐT - Ảnh: GIA TIẾN

Trong đó, hướng dẫn chấm môn văn thể hiện khá rõ ràng độ mở mà các địa phương này thống nhất. Cụ thể ở câu 1 (2 điểm), hướng dẫn của bộ yêu cầu phải nêu được hai ý “màu hồng hồng của ánh sương mai” được 0,5 điểm và “người đàn bà” thì cho 0,5 điểm. Trong khi đó, hướng dẫn của 11 tỉnh thành này quy định ở ý nhỏ đầu tiên, thí sinh chỉ cần nêu được một trong các ý “màu hồng hồng”, “ánh sương mai”, “chiếc thuyền, chiếc thuyền lưới vó ở ngoài khơi tiến vào... màu sương mù mờ” là đã được 0,5 điểm. Tương tự, ở ý thứ hai, thí sinh chỉ cần nêu được một trong các ý sẽ được 0,5 điểm.
Được Bộ GD-ĐT “bật đèn xanh”?
Ông Nguyễn Vinh Hiển(thứ trưởng Bộ GD-ĐT):
Yêu cầu 11 địa phương báo cáo
Trao đổi với Tuổi Trẻ về vụ việc nghiêm trọng này, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho rằng khi các tỉnh ĐBSCL có công văn xin họp để thống nhất phương án chấm thi chung, Bộ GD-ĐT đã có công văn số 360 đồng ý. Nhưng đó chỉ là đồng ý cho phép các tỉnh họp để thống nhất phương án chấm, bám sát đáp án và hướng dẫn chấm thi chung của Bộ GD-ĐT đã ban hành chứ không phải cho phép các tỉnh thống nhất một đáp án chấm thi khác.
Hiện Bộ GD-ĐT đã đề nghị 11 sở GD-ĐT tham gia cuộc họp trên phải gửi báo cáo và biên bản cuộc họp thống nhất về Bộ GD-ĐT. Quan điểm của Bộ GD-ĐT là nếu các sở, cá nhân vi phạm quy chế thi và hướng dẫn chấm thi của Bộ GD-ĐT thì sẽ phải xử lý nghiêm khắc.
Về việc có hay không việc chấm lại bài thi của thí sinh 11 tỉnh ĐBSCL, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết sẽ có quyết định sau khi kiểm tra rõ sự việc trên.
VĨNH HÀ
Trong câu 2 (3 điểm), hướng dẫn của 11 tỉnh thành thống nhất học sinh làm đủ các phần mở bài, thân bài, kết luận dù nội dung sơ sài vẫn cho tối thiểu 1,5 điểm. Về nội dung bài viết, học sinh đưa ra cơ sở lựa chọn nào cũng cho điểm theo hướng dẫn chấm của bộ.
Ở câu 3, hướng dẫn chấm của 11 tỉnh thành này cũng tỏ ra khá thoáng. Đáng chú ý ở các câu khác nhau, hướng dẫn chấm còn “thòng” thêm một số yêu cầu như: “không trừ điểm khi học sinh nêu dư ý trong bài làm, không tính lỗi chính tả, không yêu cầu viết thành đoạn văn” hay “lỗi diễn đạt, chính tả... giám khảo linh hoạt cho điểm (không trừ điểm quá nặng)”...
Trao đổi với Tuổi Trẻ chiều 18-6, ông Nguyễn Hoàng Nhi - giám đốc Sở GD-ĐT Đồng Tháp - cho biết việc họp thống nhất hướng dẫn chấm bài thi tốt nghiệp THPT 2011 cho 11 sở GD-ĐT khu vực ĐBSCL (trừ Tiền Giang và Bến Tre không chấm chéo bài thi khu vực này nên không tham gia) do Đồng Tháp đề xuất và đã được Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục (Bộ GD-ĐT) đồng ý.
Không chỉ môn văn mà 11 sở đã họp và thống nhất hướng dẫn chấm dựa trên đáp án của Bộ GD-ĐT cho tám môn tự luận của cả hai hệ THPT và giáo dục thường xuyên.
Ông Nhi khẳng định: “Quan điểm của chúng tôi tại cuộc họp ngày 5-6 có ba ý rất rõ: một là phải dựa vào đáp án của bộ, đây là điều bất di bất dịch và vận dụng làm sao đừng sai quy chế chấm; thứ hai là phải vì học sinh, nghĩa là phải tìm nếu thí sinh làm không trúng tròn trịa mà trúng được 8/10 hoặc 4/10 thì cũng phải tính điểm cho thí sinh, chứ không phải trúng hết rồi mới cho tròn điểm, còn trúng phân nửa mà gạch bỏ hết là không nên; thứ ba là không nên chấm chặt quá và cũng không nên chấm lỏng quá.
Trong quá trình cụ thể đi vào hướng dẫn đáp án thì những người tham dự đều thống nhất phần nào đồng ý, phần nào không đồng ý rồi cuối cùng gút lại trên tinh thần dân chủ dựa vào đáp án của bộ”. Theo ông Nhi, đề xuất này nhằm tránh tình trạng có địa phương chấm quá chặt dẫn đến kết quả của học sinh rất thấp trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2009 (Bến Tre chấm cho Đồng Tháp mà sau đó thanh tra của bộ khẳng định việc chấm của tỉnh này chặt hơn các tỉnh khác).
Ông Nhi cho biết thêm từ hội nghị hướng dẫn triển khai năng lực quản lý cho giám đốc các sở GD-ĐT do Bộ GD-ĐT tổ chức cuối tháng 4-2011 tại Đắk Lắk, ông đã nêu vấn đề cần thống nhất hướng dẫn chấm thi cho các địa phương. Với tư cách đơn vị trưởng vùng 6 (các tỉnh thành khu vực ĐBSCL) năm học 2010-2011, Sở GD-ĐT Đồng Tháp đã gửi công văn cho Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục xin tổ chức cuộc họp các sở GD-ĐT vùng 6 để thảo luận hướng dẫn chấm thi các môn tự luận.
Ngày 20-5, Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục có công văn đồng ý và Đồng Tháp đã tổ chức cuộc họp này vào ngày 5-6 tại Cần Thơ. Mỗi tỉnh đã cử hai cán bộ tham gia thảo luận một môn để xác định cái nào chấm theo hướng dẫn của bộ, cái nào có thể vận dụng riêng để sau đó thống nhất và đưa ra hướng dẫn chấm chung cho 11 tỉnh thành. Ông Nhi tham gia họp thống nhất chấm môn toán và cho biết việc thống nhất này vẫn theo hướng dẫn của bộ, phần vận dụng cũng trong phạm vi cho phép chứ không làm sai đáp án của bộ. Với thống nhất chấm môn văn THPT, ông Nhi cho rằng có những nội dung vận dụng nhưng trong phạm vi cho phép.
Lý giải về nội dung của những bản thống nhất trên, ông Ninh Thành Viên - phó giám đốc Sở GD-ĐT Kiên Giang, người trực tiếp tham gia thảo luận hướng dẫn chấm môn văn hệ giáo dục thường xuyên - cho biết: “Đề thi có câu mở nên các sở bàn bạc thống nhất cách chấm, biểu điểm để thí sinh không bị thiệt thòi. Học sinh ĐBSCL có những đặc điểm riêng về cách diễn đạt, trình bày nên việc thống nhất này là cần thiết. Khi đi vào chi tiết hóa hướng dẫn chấm, có nhiều ý kiến khác nhau nên chúng tôi chỉ thống nhất đưa vào hướng dẫn chấm những nội dung được đa số đồng ý”.
Giám đốc Sở GD-ĐT An Giang Nguyễn Thanh Bình cho rằng việc họp để thống nhất hướng dẫn chấm là cần thiết để đảm bảo sự công bằng cho thí sinh. Tuy nhiên việc thống nhất này cần bám sát đáp án của bộ, chỉ rõ những điểm có thể linh hoạt chứ không phải cho điểm vô tội vạ. Ông Trần Trọng Khiếm, giám đốc Sở GD-ĐT Cần Thơ, cho rằng: “Về mặt khách quan, chúng tôi khẳng định cuộc họp tại Cần Thơ ngày 5-6 là để thống nhất hướng dẫn chấm thi chứ không phải ngồi lại với nhau để cho điểm vô tư”.
Để có kết quả đẹp?
Tiếp tục công bố kết quả thi tốt nghiệp
Ngày 18-6, nhiều tỉnh thành tiếp tục công bố kết quả thi tốt nghiệp THPT. Hầu hết trong số đó đều có tỉ lệ tốt nghiệp khá cao. Điển hình như tại Thanh Hóa, tỉ lệ tốt nghiệp hệ THPT toàn tỉnh đạt 99,23%; ở hệ giáo dục thường xuyên, tỉ lệ tốt nghiệp còn cao hơn với 99,79%.
Tại Đà Nẵng, tỉ lệ thí sinh hệ THPT đậu tốt nghiệp là 97,2%, hệ giáo dục thường xuyên có 79,9% thí sinh đậu tốt nghiệp. Tại Bình Định, 96,84% học sinh hệ THPT tốt nghiệp. Cả tỉnh có năm trường THPT có tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp 100% là THPT chuyên Lê Quý Đôn, THPT Quốc học Quy Nhơn, THPT số 1 An Nhơn, THPT Nguyễn Trân và THPT Trần Cao Vân. Đối với hệ giáo dục thường xuyên, tỉ lệ tốt nghiệp là 85,71%. Tại Cần Thơ, ở hệ THPT tỉ lệ thí sinh tốt nghiệp đạt 97,74%, ở hệ giáo dục thường xuyên đạt 69,18%.
H.ĐỒNG - Đ.CƯỜNG - X.NGUYÊN - T. XUÂN
Chính việc thỏa thuận, thống nhất này đã giúp giám khảo rộng tay hơn và các tỉnh ĐBSCL có kết quả đẹp hơn ở bài thi tự luận? Ông Tống Giang - tổ trưởng tổ chấm môn lịch sử tại Trà Vinh, nơi đã chấm cho Hậu Giang đạt tỉ lệ 97% bài thi môn sử THPT trên trung bình - cho rằng hướng dẫn chấm môn sử của các tỉnh ĐBSCL cơ bản sát đáp án. Điểm môn này cao do đề thi dễ, trọng tâm, đáp án rõ ràng, hoàn toàn trong chuẩn kiến thức chứ không phải do việc thống nhất phương án chấm.
Tuy nhiên, một giáo viên văn, cán bộ trong đoàn thanh tra chấm thi tỉnh Kiên Giang (thanh tra chấm thi tại Long An), cho biết tỉ lệ tốt nghiệp các tỉnh ĐBSCL năm nay hầu hết tăng so với các năm trước. Riêng môn văn điểm thi năm nay khá cao.
Chẳng hạn tại Kiên Giang, tỉ lệ điểm từ trung bình trở lên tăng khoảng 30% so với năm 2010, từ trên 60% của năm trước lên hơn 90% trong năm nay. Vị cán bộ này cho biết điểm thi của địa phương không do 11 sở này chấm thấp hơn. So với các tỉnh ĐBSCL, tỉ lệ điểm trung bình hai môn văn và địa lý của Long An thấp hơn vì bài thi của tỉnh này do TP.HCM chấm.
Với môn văn THPT, nhiều giáo viên công nhận biên bản thống nhất phương án chấm của các tỉnh ĐBSCL có rộng hơn hướng dẫn chấm lần đầu của bộ (đặc biệt ở câu 1). Các tỉnh đều triển khai chấm theo phương án này. Nhờ áp dụng phương án chấm rộng ngay từ đầu nên sau khi Bộ GD-ĐT có văn bản điều chỉnh hướng dẫn chấm thi, các tỉnh khu vực này không phải chấm lại những bài đã chấm trước đó.
Ở môn địa lý, một giáo viên của tỉnh Tây Ninh, cán bộ thanh tra chấm thi ở tỉnh An Giang, cho rằng phương án chấm của các tỉnh ĐBSCL rộng hơn so với đáp án của bộ ở phần biểu đồ. Điều này có thể giúp giám khảo chấm rộng hơn khoảng 0,5 điểm nếu so với những nơi chấm chặt. Khi chấm, giám khảo bám sát hướng dẫn chấm từ hội nghị ở Cần Thơ. Học sinh các tỉnh trong vùng có thể hưởng điểm rộng hơn chút ít nếu so với khu vực khác (như các tỉnh miền Đông Nam bộ chẳng hạn).
Từ góc độ khác, một giáo viên của TP.HCM làm nhiệm vụ thanh tra chấm thi tại hội đồng chấm thi tỉnh Hậu Giang (đơn vị chấm cho học sinh tỉnh Cà Mau) cho biết ngay sau khi tiếp cận văn bản thống nhất phương án chấm của các tỉnh ĐBSCL, đoàn thanh tra có hỏi ý kiến bộ và được biết việc các tỉnh này họp, thảo luận phương án chấm bài tự luận (ngày 5-6 tại Cần Thơ) đã được sự chấp thuận của bộ. Một trưởng đoàn thanh tra chấm thi tại ĐBSCL bộc bạch: “Chúng tôi đã không có ý kiến gì trước một bản “công ước” từ trước bởi lẽ ý kiến của chúng tôi sẽ gây thiệt thòi cho thí sinh một tỉnh, không thể làm thay đổi kết quả của cả cụm tỉnh và rộng hơn của cả nước. Mong rằng sau kỳ thi, bộ sẽ có một cuộc họp nghiêm túc để chúng tôi có tiếng nói về những việc này nhằm rút kinh nghiệm cho kỳ thi năm sau”.
Tốt nghiệp trung học phổ thông: Tăng đột biến

 Tỉ lệ tốt nghiệp THPT năm nay trên 90%, thậm chí có nơi xấp xỉ 100% (Bắc Giang, Ninh Bình...). So với năm đầu tiên Bộ GD-ĐT tuyên bố chống tiêu cực trong thi cử (năm 2007), tỉ lệ đậu tốt nghiệp lần này tăng vượt bậc.
Niềm vui của học sinh Trường THPT Bùi Thị Xuân, Q.1, TP.HCM khi biết mình thi đậu tốt nghiệp chiều 17-6-2011. Đây cũng là lần thứ 8 trường có học sinh đậu tốt nghiệp 100%  - Ảnh: NHƯ HÙNG
Ngày 17-6, nhiều tỉnh thành tiếp tục công bố điểm thi tốt nghiệp và kết quả tốt nghiệp hầu hết đều ở mức từ 95% đến trên 99% ở cả hệ THPT lẫn giáo dục thường xuyên. Trong đó tại TP.HCM, tỉ lệ tốt nghiệp hệ THPT là 96,67%, tăng hơn 2%, và giáo dục thường xuyên là 76,2%, tăng đến 21,44% so với năm trước.
Những tỉ lệ đẹp
Từ 39,7% lên 100%
Ngày 17-6, Sở GD-ĐT Quảng Nam công bố kết quả thi tốt nghiệp THPT năm 2011. Theo đó, tỉ lệ tốt nghiệp THPT của tỉnh Quảng Nam là 97,8%, tăng hơn 3% so với năm 2010. Lần đầu tiên  Quảng Nam có đến 16 trường THPT (trong tổng số 44 trường) đậu tốt nghiệp 100%. Trong số này, đáng chú ý là Trường THPT Nam Trà My của huyện miền núi Nam Trà My. Với hầu hết học sinh là người dân tộc thiểu số và nhiều năm trước đều có tỉ lệ tốt nghiệp thấp nhất tỉnh (8,7% năm 2008, 18% năm 2009, 39,7% năm 2010), nhưng năm nay trường đã đạt tỉ lệ tốt nghiệp 100%. Đối với giáo dục thường xuyên, tỉ lệ tốt nghiệp là 96,33%, tăng 38,47% so với năm 2010, trong đó có ba trung tâm đậu tốt nghiệp 100%. (X.Phú)
Năm nay, TP.HCM có 34 trường đạt tỉ lệ đậu tốt nghiệp 100%, tăng hơn nhiều so với con số 22 trường trong năm 2010. Tương tự, thông tin từ sở GD-ĐT các tỉnh thành Tiền Giang, Cà Mau, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ... cho biết tỉ lệ tốt nghiệp của các tỉnh thành này đều đạt từ 90% trở lên. Kết quả này cho thấy năm nay là một năm thu kết quả “đẹp” với hầu hết các tỉnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Trong đó, lần đầu tiên nhiều địa phương đã chạm đến mốc tỉ lệ 90%, thậm chí xấp xỉ 98%. Riêng tỉ lệ tốt nghiệp hệ giáo dục thường xuyên còn được “cải thiện” đáng kể hơn. Cụ thể ở Tây Ninh, tỉ lệ tốt nghiệp 56,4%, trong khi năm 2010 chỉ 25,41%. Tỉ lệ này ở Đồng Tháp 81,9%, Cà Mau trên 83%.
Đặc biệt, nhìn lại lộ trình ba năm qua, nhiều địa phương đã có những “cú nhảy” ngoạn mục. Năm 2009, nhiều người dân Hà Tĩnh xôn xao vì kết quả tốt nghiệp của tỉnh tụt xuống còn 74% hệ THPT và 22% hệ giáo dục thường xuyên. Năm nay Hà Tĩnh có tỉ lệ đậu tốt nghiệp lên đến 99,14% ở hệ THPT và 97,61% ở hệ giáo dục thường xuyên.
Các tỉnh Cao Bằng, Sơn La, Điện Biên, Bắc Kạn trong các năm trước đều đứng cuối bảng xếp hạng về tỉ lệ đậu tốt nghiệp, thì năm nay tỉ lệ đậu cũng ở mức cao. Bắc Kạn năm 2010 tỉ lệ đậu tốt nghiệp khoảng 70% THPT và 50% giáo dục thường xuyên thì năm nay là 91,78% ở hệ THPT (chưa tính thí sinh tự do) và 88,86% hệ giáo dục thường xuyên.
Tỉnh Sơn La từ chỗ đứng cuối bảng xếp hạng năm 2009 với 39% đậu tốt nghiệp, năm 2010 vọt lên 91% và năm nay là 97% ở hệ THPT và 98% ở hệ giáo dục thường xuyên. Ở những tỉnh thành có điều kiện thuận lợi, tỉ lệ tốt nghiệp năm nay đều ở mức xấp xỉ 100%. Đơn cử như Ninh Bình 99,8% hệ THPT và 99,87% hệ giáo dục thường xuyên, Bắc Giang 99,37% hệ THPT và 99,63% hệ giáo dục thường xuyên, Hưng Yên 97,05% hệ THPT và 98,05% hệ giáo dục thường xuyên...
Sẽ mừng nếu thực chất

Lý giải về tỉ lệ đậu cao, đại diện nhiều sở GD-ĐT vùng khó khăn cho rằng họ đã có một năm nỗ lực áp dụng nhiều giải pháp để nâng chất lượng dạy học, phụ đạo học sinh yếu kém.
Ông Ngô Thanh Sơn, lãnh đạo Sở GD-ĐT Bắc Giang - nơi có đến 11/16 trung tâm giáo dục thường xuyên đậu tốt nghiệp 100%, giải thích: “Do có biện pháp phân loại học sinh yếu kém, tổ chức ôn tập tốt. Học sinh hệ giáo dục thường xuyên lại được cộng điểm khuyến khích 3-4 điểm nên tỉ lệ đỗ cao”.
Tuy nhiên, lý do đề thi dễ nên tỉ lệ đậu cao là một trong những nhận định của nhiều giáo viên. GS Văn Như Cương, hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh, Hà Nội, nhận xét: “Đề thi của cả sáu môn thi năm nay đều dễ hơn năm 2010. Đề dễ thì nhiều thí sinh làm được bài và tỉ lệ tốt nghiệp tăng là việc đương nhiên”.
Ông cũng cho rằng đề thi như năm nay phù hợp với mục đích kiểm tra việc hoàn thành chương trình THPT của học sinh. Chỉ có điều với những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp tăng đột biến nhưng không thể hiện nỗ lực trong việc đẩy mạnh chất lượng dạy học, khắc phục tình trạng học sinh yếu kém thì Bộ GD-ĐT cần xem xét lại tính khách quan, nghiêm túc trong khâu coi thi.
Bà Phan Thị Thu Hà, phó giám đốc Sở GD-ĐT Đồng Tháp, cho rằng: ngoài nguyên nhân từ đề thi, đâu đó có thể có tình trạng lơi lỏng trong coi thi nhưng xã hội cần ghi nhận những nỗ lực giảng dạy của thầy cô giáo trong vài năm qua. Trong khi đó, một cựu lãnh đạo Sở GD-ĐT Nghệ An lại cho rằng “khâu coi thi chắc chắn đã bị buông lỏng”.
Bởi dù đề thi có được giảm nhẹ, vừa sức nhưng tỉ lệ tốt nghiệp ở nhiều nơi không thể tăng chóng mặt, nhất là ở hệ giáo dục thường xuyên. Theo vị lãnh đạo này, cho dù nỗ lực đến đâu, sau một năm tỉ lệ tốt nghiệp chỉ tăng khoảng 5% là phù hợp với quy luật tự nhiên. Tỉ lệ tốt nghiệp cao thì mừng, nhưng nếu nó không thực chất lại là điều đáng lo ngại.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển:
Bộ không chủ trương giảm độ khó đề thi
Trao đổi với Tuổi Trẻ chiều 17-6, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho rằng:
- Việc một số nơi có hoàn cảnh khó khăn, năm trước có tỉ lệ đậu tốt nghiệp thấp, với nhiều cố gắng thì tỉ lệ tốt nghiệp tăng nhiều hơn so với những nơi đã có tỉ lệ tốt nghiệp cao. Điều đó cũng giống như tăng trưởng của bất kỳ lĩnh vực nào ở những nơi có năng suất thấp thì dễ đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn ở những nơi đã đạt được năng suất cao.
* Nhiều ý kiến cho rằng để có kết quả thi đẹp, Bộ GD-ĐT chủ trương giảm độ khó của đề thi năm nay. Điều này có đúng không, thưa ông?
- Như đã có lần tôi trao đổi trước đây: Bộ GD-ĐT không lấy mức độ khó hay dễ đối với học sinh làm tiêu chuẩn của đề thi mà nội dung của đề thi căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức kỹ năng và mục tiêu đào tạo. Nếu các em học sinh có nhiều cố gắng trong học tập, đạt được kết quả tốt thì sẽ cảm thấy đề thi dễ và ngược lại, nếu kết quả học tập thấp thì sẽ thấy đề thi khó. Bộ không có chủ trương giảm độ khó của đề thi. Mặt khác, đề thi năm nay được đánh giá có nhiều tiến bộ về mặt bao quát chương trình, mức độ phân hóa, khuyến khích tư duy sáng tạo và chính kiến của học sinh.
* Với những địa phương có kết quả tốt nghiệp tăng cao bất thường, Bộ GD-ĐT có tính đến việc kiểm tra lại không? Như thế nào có thể xem là kết quả thi có dấu hiệu bất thường? Trong trường hợp đó, Bộ GD-ĐT có tổ chức chấm thẩm định đối với các tỉnh này không?
- Quy chế thi có quy định việc Bộ GD-ĐT chấm thẩm tra kết quả thi ở những nơi có dấu hiệu bất thường. Sau khi có kết quả chấm trong toàn quốc, nếu nơi nào có dấu hiệu bất thường, thể hiện qua các dấu hiệu mâu thuẫn giữa kết quả quản lý chỉ đạo dạy và học, coi thi, chấm thi và kết quả đậu tốt nghiệp, bộ có thể tổ chức chấm thẩm định bài thi theo quy định của quy chế.
* Một số chuyên gia giáo dục cho rằng nếu đã đậu tốt nghiệp đến 98-99% thì không nên tổ chức một kỳ thi quốc gia tốn kém nữa. Ý kiến của ông về việc này?
- Kỳ thi tốt nghiệp quốc gia có nhiều mục đích khác nhau như: đánh giá mặt bằng kết quả giáo dục của các địa phương và kết quả rèn luyện phấn đấu của các em học sinh; kết quả kỳ thi sẽ có tác động trở lại đối với việc quản lý chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ dạy và học. Kỳ thi không có mục đích đánh trượt nhiều hay ít học sinh nhưng khi có kỳ thi thì cả giáo viên và học sinh đều cố gắng hơn là không có kỳ thi.
Do đó rất cần thiết có kỳ thi tốt nghiệp mang tính quốc gia để đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông, một giai đoạn quyết định cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, cũng là đánh dấu một bước chuyển tiếp rất quan trọng trong cuộc đời học tập của các em học sinh. Kỳ thi tốt nghiệp mang tính quốc gia đã được quy định trong Luật giáo dục.
Qua kết quả bước đầu từ báo cáo của 16 tỉnh thấy rằng tỉ lệ đậu tốt nghiệp năm nay cao hơn so với năm trước nhưng không nhiều; đặc biệt, không tăng tỉ lệ học sinh đậu khá giỏi. Điều đó sơ bộ cho thấy việc nâng cao chất lượng học sinh đại trà có tiến bộ, nhưng sự cố gắng bồi dưỡng học sinh giỏi chưa có kết quả rõ. Tuy nhiên, các đánh giá chính thức phải chờ phân tích báo cáo số liệu của toàn quốc.
V.HÀ - P.ĐIỀN - L.TRANG
Tỉ lệ tốt nghiệp THPT ở một số tỉnh thành năm 2011.  Nguồn: Tuổi Trẻ - Đồ họa: Như Khanh
* ĐBSCL: nhiều tỉnh có tỉ lệ đậu cao
Tại Bến Tre, tỉ lệ đậu tốt nghiệp hệ THPT đạt 84,15% (năm 2010 đạt hơn 73%), hệ giáo dục thường xuyên (GDTX) đạt 53,02% (năm 2010 đạt hơn 30%). Tại Tiền Giang, hệ THPT đạt tỉ lệ 90,95%, GDTX đạt 45,34%. Tại Long An, hệ THPT đạt tỉ lệ 88,96% (năm 2010 đạt 87,14%), hệ GDTX đạt tỉ lệ 60,12% (năm 2010 đạt 45,45%). Tại Sóc Trăng, tỉ lệ đậu tốt nghiệp THPT đạt 90,74%, (năm 2010 là 71,75%), hệ GDTX có 988/1.447 thí sinh đậu tốt nghiệp, đạt tỉ lệ 68,27% (năm 2010 là 37,97%). (Thanh Xuân)
* Khánh Hòa: tỉ lệ 96,6%
Sở GD-ĐT Khánh Hòa cho biết hệ THPT có 12.263 thí sinh đậu tốt nghiệp trong 12.692 thí sinh dự thi, đạt tỉ lệ 96,6%. Ở hệ GDTX, có 1.987 thí sinh đậu tốt nghiệp trong 2.341 thí sinh dự thi, đạt 84,87%. Trong đó, hệ GDTX của Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng có tỉ lệ tốt nghiệp đạt 100%. (CHÂU TƯỜNG)
* Bình Phước: cao nhất từ khi tách tỉnh
Tại Bình Phước, có 8.081 học sinh hệ THPT dự thi với 7.643 thí sinh đậu, đạt 94,57% (năm 2010 là 92%). Theo ông Huỳnh Công Khanh - phó giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Bình Phước, đây là năm học có tỉ lệ học sinh (hệ THPT) đậu tốt nghiệp cao nhất từ khi tách ra từ tỉnh Sông Bé (năm 1997) đến nay. (BÙI LIÊM - THIÊN PHÚC)
* Lâm Đồng: tỉ lệ trên 93%
Tỉ lệ học sinh hệ THPT đậu tốt nghiệp đạt 93,54%, học sinh hệ GDTX là 96,59%, cao hơn 2% so với năm học trước. Ông Nguyễn Văn Sang - chánh văn phòng Sở GD-ĐT Lâm Đồng - nhận định so với kết quả kỳ thi tốt nghiệp năm trước, năm nay thí sinh người dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng đậu tốt nghiệp đạt 79,6%, cao nhất từ trước tới nay. (TÂY NGUYÊN)
Xếp loại tốt nghiệp?

Bộ GD nên xem xét lại việc xếp loại bằng Tốt nghiệp cho học sinh. Việc xếp loại bằng cấp như hiện nay là hoàn toàn có vấn đề và không đúng với thực tế. Giả dụ một thí sinh thi với số điểm 30 điểm, tôi xếp loại trung bình, nhưng với một học sinh khác, 12 năm trời học sinh khá giỏi, thi một môn văn 5.5 điểm nhưng tổng điểm 50 điểm thì cũng xếp loại trung bình. Bằng tốt nghiệp là một loại giấy tờ rất và nếu không muốn nói là cực kì quan trọng đối với cuộc đời của mỗi người. Bởi lẽ đó, nếu xếp loại một cách qua loa, nhanh lẹ như vậy, phải chăng chỉ trong 3 ngày thi, Bộ đã tổng kết được năng lực trong 12 năm trời của học sinh. Nếu xếp loại, tôi nghĩ phải xét từ lớp 1 đến lớp 12, xét về cả học lực lẫn hạnh kiểm. Việc Bộ yêu cầu ghi đầy đủ HỌC BẠ HỌC SINH từ cấp 1 đến cấp 3 chỉ là thứ đồ chơi bỏ đó hay sao? Đó là thành tích, là năng lực mà học sinh trải qua suốt quảng đời học tập của mình. Như vậy, chính HỌC BẠ mới là thứ đánh giá chứ không phải là 3 ngày thi.
Việc đánh giá theo cách trên càng giúp cho chúng ta thắt chặt việc học của học sinh. Vì sao? Nếu chỉ xét năm học cuối cùng (lớp 12) phải là HỌC SINH GIỎI thì tôi mới được xét loại GIỎI thì các năm trước việc gì tôi phải học cho tốt, học cho giỏi, tôi chỉ cần học làm sao cho cuối năm lớp 12 tôi được HSG là được rồi! Vậy thì sai lầm, sai lầm quá đáng.
Còn đánh giá 12 năm, học sinh dù muốn hay không cũng phải nổ lực học tập vì tấm bằng ra đời của mình. Là một người đã qua cái thời học sinh, nhưng những ấn tượng về một nền giáo dục đối với tôi là còn chưa tốt đẹp, chưa hoàn thiện. Cải cách, cải cách phải nhằm vào học sinh, cải cách như thế nào cho học sinh tiếp cận một cách dễ dàng, chứ không phải bất kì kiến thức gì cũng đưa vào SGK, vào chương trình dạy, cải cách như thế nào để những chủ nhân tương lai của đất nước như chúng tôi phải thật sự cảm thấy mình được công bằng...

 

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Bảng điểm môn NLT Kê

1. Clik vào liên kết dưới đây để tải bảng điểm về:
http://www.mediafire.com/?3lkt3w1r4zauz1r
2. Clik vào để tải tài liệu slide bài giảng môn NLTK:
http://www.mediafire.com/?ifg0o4gpa1nkjdn
3. Hoặc các bạn vào trang web của thầy Phong:
http://phongdhsg.wikispaces.com/
http://phongdhsg.wikispaces.com/
4. Thông báo lịch học và thi:
  • Thứ sáu, 07/10 nghỉ học
  • Thứ hai, 10/10 nghỉ học
  • Thứ ba, 11/10 học AV buổi cuối
  • Thứ tư, 12/10 nghỉ học
  • Thứ năm, 13/10 nghỉ học
  • thứ sáu, 14/10 học môn Nghiệp vụ NH của thầy Thầy
  • Thứ ba, 18/10 thi môn NLT Kê
  • Thứ Năm, ngày 10/10 thi môn AVCN

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

Môn Nguyên Lý Thống Kê Kinh Tế

 Giảng Viên : ThS Nguyễn Văn Phong
Số tiết: 45

click vào liên kết dưới đây để tải tài liệu slide bài giảng:
http://www.mediafire.com/?ifg0o4gpa1nkjdn
http://www.mediafire.com/?ifg0o4gpa1nkjdn

Chiến lược trụ bão của doanh nghiệp

Chiến lược trụ bão của doanh nghiệp: Phải sống

Đưa tay xóa bàn cờ sau khi bị chiếu nước cuối, Thành gọi trả tiền 2 ly cà phê và bao thuốc lá rồi cố vớt vát sĩ diện: "Cược nhỏ quá, không có hứng đánh nên mới thua". Tuấn cười to: "Nhỏ mà thắng vẫn là thắng nghe. Thời buổi khó khăn, nhỏ là ngon rồi".
LTS: Năm 2011 được cho là năm khó khăn nhất đối với các doanh nghiệp từ sau Đổi Mới. Chỉ trong 9 tháng đầu năm, đã có tới hơn 48.000 doanh nghiệp phá sản. Những DN còn "trụ" lại được trong cơn bão khủng hoảng cũng đang gồng mình, gắng sức vượt bão.
Cuộc khủng hoảng kinh tế lần này cũng có thể coi là một hàn thử biểu đo sức khỏe của doanh nghiệp. Những DN linh hoạt, năng động và có nền tảng tốt sẽ vượt lên và nắm lấy cơ hội. Nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam, báo VietNamNet mở diễn đàn "Doanh nghiệp vượt bão khủng hoảng" để cộng đồng doanh nghiệp cùng chia sẻ những bài học, kinh nghiệm - cả thành công và thất bại - để cùng hướng tới xây dựng cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam vững mạnh.
Mọi thông tin, chia sẻ, mời độc giả nhập vào hộp phản hồi phía dưới hoặc email về địa chỉ vef@vietnamnet.vn.
Cụm từ "thời buổi khó khăn" làm câu chuyện giữa 2 người tài xế taxi rỗi việc chợt chùng xuống. Vắng khách tranh thủ làm ván cờ cho khuây khỏa nhưng dường như không khuây khỏa nổi. Những nỗi lo lắng cứ chực trở về.
Tuấn và Thành không hiểu lắm về biến động tỷ giá, lãi suất cao, khan hiếm nguồn vốn, lạm phát, các biến động về thị trường hàng hóa đầu vào. Nhưng đó chính là những gì mà chủ doanh nghiệp nơi họ làm việc đang cùng lúc phải đối mặt. Ván cờ của các nhà lãnh đạo đang vào thế bí.
Những nẻo đường phá sản
Kinh tế khó khăn, lạm phát cao, lãi suất tăng cao và đồng tiền mất giá. Chi phí ngày càng đội lên ở phía đầu vào trong khi ở đầu ra thì sức mua giảm mạnh. Khó khăn bủa vây doanh nghiệp từ mọi hướng. Nhiều "chiến sĩ trên mặt trận kinh tế" đã hy sinh.
Báo cáo của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho thấy, trong 6 tháng đầu năm nay, có khoảng 30% số doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh đã phá sản, giải thể, đóng cửa, tạm ngừng sản xuất. Theo báo cáo, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do tiếp cận nguồn vốn ngân hàng do thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và lãi suất cho vay vượt quá khả năng chịu đựng của doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp cho biết họ gặp nhiều khó khăn hơn các năm trước cả về việc tiếp cận vốn cũng như chi phí vốn.

Vụ phá sản của Siêu thị điện máy Wonder Buy tại TP.HCM vào giữa  tháng 6/2011 gióng hồi chuông báo động cả nước. Giải thích lý do phá sản, ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Điện máy - Máy tính - Viễn thông Hợp Nhất, đơn vị sở hữu thương hiệu Wonder Buy, cho biết, đã lỗ hơn 52 tỷ đồng chỉ trong một năm hoạt động.
Nhưng theo ông Phan Thanh Hà, Tổng giám đốc Hợp Nhất, Wonder Buy không phải là siêu thị điện máy đầu tiên rơi vào cảnh phá sản tại thị trường TP.HCM, mà trước đó nhiều siêu thị nhỏ lẻ khác đã âm thầm ngừng hoạt động.
Nhưng phá sản không chỉ là những trường hợp đã chính thức tuyên bố như Wonder Buy. Một công ty nhỏ tại Hà Nội vừa trả lại văn phòng trên phố Thái Hà sầm uất ở quận Đống Đa để rút về đặt văn phòng tại nhà riêng của giám đốc ở quận Long Biên, cách xa trung tâm. "Làm thương mại, chủ yếu buôn bán thiết bị máy tính mà giờ rút về đây cũng là việc cực chẳng đã. Khách mấy ai tới đây mua đâu. Chỉ cố giữ để chờ khấm khá hơn thì tái hoạt động, không thì coi như bỏ", vị giám đốc (không muốn nêu tên) chua chát nói.
Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp bỗng dưng muốn đổi ngành kinh doanh chính để sống tạm qua thời khó khăn. Một công ty xây dựng ở Gò Vấp, TP.HCM ngậm ngùi bỏ nghề chính chuyển sang bán vật liệu xây dựng. Một nhà hàng ăn uống sân vườn diện tích lớn ở Hoàng Mai, Hà Nội, dẹp tiệm để đổi thành bãi gửi xe ôtô. Công ty Chứng khoán Kim Long cũng từng xin ý kiến cổ đông dừng kinh doanh chứng khoán để chuyển sang đầu tư bất động sản và thương mại điện tử. "Đó chẳng qua là doanh nghiệp đã gián tiếp phá sản trong lĩnh vực này để chuyển sang lĩnh vực khác", anh Lê Đức Trọng, một cổ đông của Kim Long cho biết.
Theo hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, trước những khó khăn chung của nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp trên cả nước đã phải bó hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh, tạm dừng hoạt động hoặc chuyển đổi, chuyển giao một phần sở hữu để tồn tại, thậm chí một số phải ngừng hoạt động. Điển hình như TP.HCM, Hải Phòng có gần 30% doanh nghiệp đình trệ sản xuất, đứng trước nguy cơ phá sản, Ninh Bình có đến 90% doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, chờ thời.
Chiến lược chống bão
Phá sản, dù đã chính thức hay đang chạm bờ vực, là điều không ai muốn. Hầu hết, từ chính chủ doanh nghiệp cho tới người lao động, Nhà nước và cả khách hàng đều muốn thấy doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Khó khăn của nền kinh tế có thể còn kéo dài. Doanh nghiệp cần phải có chiến lược kinh doanh riêng cho giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng có thể phát triển tốt hơn.
Không có bài học nào có thể áp dụng chung cho tất cả. Tuy nhiên, quyết tâm phải sống và nghị lực vượt khó là điều phải có ở bản thân mỗi doanh nghiệp. Cuộc chiến giành sự sống cho doanh nghiệp là thiết yếu, đòi hỏi những chiến lược kinh doanh phù hợp và linh hoạt.

Nhiều DN đã "hy sinh" trong mặt trận kinh tế (ảnh phunu.info)
"Thương trường có lúc khó khăn, luôn luôn khốc liệt. Do vậy, bổn phận của doanh nghiệp là phải luôn có cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp, được điều chỉnh linh hoạt tại từng thời điểm. Nếu quá khó khăn, thậm chí doanh nghiệp phải áp dụng chiến lược tạm co cụm để bảo toàn vốn", Nguyễn Anh Ngọc, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM và là giảng viên chính môn Chiến lược kinh doanh tại đây, cho biết.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện đang áp dụng chiến lược bảo toàn vốn bằng cách co cụm, chấp nhận bỏ qua cơ hội mở rộng quy mô sản xuất như vậy. Theo số liệu của Sở Công Thương TP.HCM, 6 tháng đầu năm 2011, nhiều doanh nghiệp chọn phương án sản xuất cầm chừng. Một số doanh nghiệp tạm đình hoãn, dãn tiến độ thực hiện dự án, hạn chế đầu tư mở rộng quy mô.
Thời điểm khó khăn hiện nay mang lại quá nhiều bất lợi và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp ở nhiều ngành. Tuy nhiên, theo ông Ngọc, trong giông bão không phải là không có cơ hội và doanh nghiệp phải bình tĩnh nhìn nhận cơ hội để tìm cửa sống cho mình. "Phải tìm mọi cách để giảm áp lực khó khăn. Chẳng hạn, hợp tác với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với mình để cùng san sẻ khó khăn và chi phí. Đồng thời, nên hướng tới sự phát triển dài hạn về sau", ông Ngọc cho biết.
Công ty Thức ăn Gia súc Thành Vinh ở An Khánh, Hà Nội đã chọn giải pháp đó. Công ty đàm phán nhập hàng với thời hạn trả tiền chậm hơn do gần đây khó xoay tiền kịp thời như trước đây. Công ty có thêm những biện pháp hỗ trợ các đại lý bán hàng: cho họ trả tiền hàng chậm hơn và tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, cử nhân viên tham gia tiếp thị địa phương cùng đại lý.
Bên cạnh hợp tác để chia sẻ khó khăn, lúc thị trường khó khăn, ảm đạm và vắng vẻ chính là lúc doanh nghiệp phải tranh thủ rà soát nội bộ. "Rà soát nội bộ, hay còn gọi là tái cấu trúc, cần phải tiến hành trong thời điểm khó khăn. Càng khó khăn càng phải rà soát kỹ để đảm bảo các nguồn lực được sử dụng hiệu quả nhất. Khó khăn không cho phép lãng phí. Rà soát từ nhân lực tới việc sử dụng nguyên vật liệu, chi phí bán hàng", ông Ngọc cho biết.
Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát đi theo hướng này. Công ty rà soát các khâu, siết lại các hoạt động để tăng năng suất. Công ty hoàn thiện quy trình sản xuất khép kín nhằm giảm tiêu hao nhiên liệu. Ngoài ra, Công ty cũng quyết định đẩy nhanh tiến độ đầu tư giai đoạn 2 Khu Liên hiệp Gang thép Hòa Phát ở Hải Dương vì sản xuất thép bằng công nghệ lò cao mang lại tỷ suất lợi nhuận 10% so với 5-6% của việc sản xuất thép bằng lò điện.
Trong khó khăn, doanh nghiệp vẫn cần chú trọng quản lý nguồn lực con người, đặc biệt là quản lý nhân tài. Doanh nghiệp cần thu hút và giữ chân được những nhân tài trong doanh nghiệp vì họ mới là những người giải quyết được các vấn đề phức tạp của thị trường và môi trường tổ chức.
Quan điểm trên của ông Ngọc trùng khớp với ý kiến TS. Lê Đăng Doanh đưa ra gần đây, rằng thời điểm này chính là cơ hội để doanh nghiệp tiến hành cải cách, tái cơ cấu. Cụ thể, doanh nghiệp cần tính toán đến các biện pháp để tiết kiệm tối đa chi phí, nâng cao hiệu quả và vận dụng khoa học kỹ thuật và sáng tạo của con người.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp cũng đã linh hoạt điều chỉnh sản phẩm, thị trường phù hợp với điều kiện mới. Khi xem xét tập trung cho các sản phẩm phù hợp với nhu cầu hiện tại, Tập đoàn Kinh Đô nhận thấy, kinh tế khó khăn thì người dân ăn bánh mì nhiều hơn bún phở nên đã đẩy mạnh dòng sản phẩm bánh mì.
Tìm sản phẩm phù hợp rồi, doanh nghiệp còn phải chấp nhận giảm lợi nhuận để thị trường chấp nhận. "Phải điều chỉnh tỉ lệ lãi gộp bằng cách giảm giá bán về sát với giá vốn. Có như vậy, người tiêu dùng mới dễ chấp nhận và doanh nghiệp coi như đã tự kích cầu cho mình. Lúc này, lãi ít đã là chiến thắng", ông Ngọc, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM, cho biết.
Siêu thị Co.op Mart liên tục thực hiện chủ trương chia sẻ khó khăn với người tiêu dùng bằng chính sách giảm giá. Các mặt hàng thực phẩm tươi sống tại đây đề mức giá thấp hơn thị trường từ 10-30%. Co.op Mart cho biết cách làm này đã kích cầu mua sắm, đáp ứng được mong muốn chi tiêu tiết kiệm của số đông người tiêu dùng trong cơn bão giá.
Thực tế cho thấy, trong lúc khó khăn, nếu doanh nghiệp bỏ qua những khoản lợi nhuận nhỏ và không chuyên tâm, cẩn trọng với từng đường đi nước bước thì cũng như trường hợp anh Thành ở trên, thua ván cờ vì cho rằng khoản cược không đủ hấp dẫn.

Báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương công bố tháng 9/2010 cho thấy, hơn 65% trong tổng số 2.543 doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia khảo sát trả lời rằng khủng hoảng toàn cầu tác động tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp.
Trong đó, các doanh nghiệp tại Hà Nội, Nghệ An và TP.HCM chịu tác động mạnh nhất.
Nếu xét theo quy mô, các doanh nghiệp vừa chịu tác động của khủng hoảng nhiều nhất (với tỷ lệ trả lời có là 83,9%), kế đó là doanh nghiệp nhỏ (78,9%) và siêu nhỏ (58%).
Xét theo loại hình doanh nghiệp, các công ty trách nhiệm hữu hạn chịu ảnh hưởng nhiều nhất (82,7%), còn các hộ gia đình chịu ảnh hưởng ít nhất (chỉ 57,8%).
Từ chuyện quy hoạch đến sự phân tán nguồn lực kinh tế
Kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2011 bắt đầu có những tín hiệu lạc quan, thể hiện cả trong các chính sách điều hành của Chính phủ lẫn trên thị trường, như lạm phát và lãi suất có dấu hiệu giảm, vàng hạ nhiệt... Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó và đặc biệt là có những sự bất cập tồn tại từ năm này qua năm khác, gây ảnh hưởng đến sự phát triển tổng thể của nền kinh tế, điển hình là việc nguồn lực quốc gia bị phân tán do sự phân cấp không rõ ràng trong quy hoạch từ trung ương đến địa phương. Tọa đàm của Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần tổ chức tại Press Café cuối tháng 9 vừa qua đi vào phân tích thực trạng này và đưa ra một số giải pháp bước đầu. Thành phần khách mời gồm ông Vũ Thành Tự Anh (Giám đốc nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright), ông Lương Văn Lý (Phó chủ tịch Câu lạc bộ Doanh nhân Sài Gòn, nguyên Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh, hiện là Trưởng bộ phận đầu tư của Công ty luật Việt Long Thăng), luật sư Trương Trọng Nghĩa, đại biểu Quốc hội, cùng ba chuyên gia kinh tế của báo DNSGCT -  các ông Phan Chánh Dưỡng, Nguyễn Văn Sơn và Huỳnh Bửu Sơn.
Mấy năm gần đây, ông Phan Chánh Dưỡng có dịp đi hầu như khắp đất nước, gặp gỡ nhiều lãnh đạo các tỉnh thành và quan chức các bộ, ngành. Ông nhận xét rằng Ủy ban Kế hoạch nhà nước - bộ phận vô cùng quan trọng, đề ra chiến lược phát triển của cả quốc gia - từ khi chuyển thành Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mà đặc biệt trong mấy năm gần đây, dường như chỉ còn là đơn vị tổng hợp các kế hoạch từ các tỉnh thành đưa lên mà thôi. Gốc Cà Mau, nên ông Dưỡng đi từ chuyện quê mình: "Bên cạnh Cụm Khí Điện đạm Cà Mau, các tỉnh lân cận tỉnh nào cũng có nhà máy nhiệt điện, từ Bạc Liêu đến Trà Vinh, Sóc Trăng... Nhà máy chạy bằng than, than được nhập khẩu từ Úc, Indonesia, nên tỉnh nào cũng muốn xây cảng biển, mà cảng phải đủ sức cho tàu lớn ra vào dễ dàng, tức là phải có cảng nước sâu". Ông Dưỡng bức xúc: "Cớ gì mà tỉnh nào cũng cần xây một nhà máy điện? Điện chỉ cần truyền tải lên đường dây Bắc - Nam, đưa đến mọi nơi là xong. Làm như vậy là chẻ nát nền kinh tế".
Từ 500 "pháo đài" đến những bản quy hoạch xã nông thôn mới
Dù chúng ta luôn nói rằng từ khi đổi mới, những cách nghĩ cách làm của thời bao cấp đã bị xóa sổ, thì trên thực tế rất nhiều chuyện "chỉ có ở thời bao cấp" vẫn đang diễn ra. Ông Huỳnh Bửu Sơn nói: "Thời bao cấp, chúng ta đưa ra tiêu chuẩn mỗi đơn vị quận huyện là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp hoàn chỉnh, xây dựng từng đơn vị hành chính thành đơn vị kinh tế, với suy nghĩ rằng khi mỗi đơn vị ấy phát triển thì cả nền kinh tế cũng phát triển theo. Cả nước trở thành 500 "pháo đài" trong kinh tế.
Thực tế đã cho thấy điều đó không thể thực hiện được, đầu tiên là vốn đâu để xây dựng được như thế, nhưng ý tưởng ấy đã làm nảy sinh bao nhiêu hệ lụy, điển hình là việc ngăn sông cấm chợ. Nơi nào cũng muốn bảo vệ sản phẩm vùng mình, tạo sự lệch lạc về giá, chẳng hạn giá khoai mì ở TP. Hồ Chí Minh gấp 5-6 lần giá bán ở Pleiku. Và nếu ở thời bao cấp, "đơn vị kinh tế" là các quận huyện thì ngày nay đã được nâng lên cấp tỉnh và vẫn theo tư duy là trong phạm vi hành chính ấy phải có tất cả. Tỉnh nào cũng đầu tư trồng mía làm nhà máy đường, nhà máy phân bón, xi măng..., bây giờ thì cảng biển, sân bay.
Chúng ta sẽ trở lại một vấn đề cũ, đó là không tỉnh thành nào có đủ vốn và việc sử dụng vốn không thể đạt hiệu quả cao. Kết quả là chỉ số ICOR (đo lường số đơn vị vốn đầu tư mới để làm tăng thêm một đơn vị tăng trưởng GDP) của nước ta đã tăng vọt, từ 2,5 trong thời kỳ đầu đổi mới lên đến 7-8 như hiện nay".
Là một chuyên gia về Đồng bằng sông Cửu Long, ông Nguyễn Văn Sơn hiểu rõ kinh tế vùng này, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến quy hoạch. Ông nói: "Trước đây chúng ta quy hoạch kiểu quận huyện như anh Sơn nói, khiến cả nước có 500 pháo đài, hao tiền tốn của, là do học theo Liên Xô. Bây giờ nảy sinh những chuyện khác, tốn kém hơn nhiều.
Cụ thể nhất là chương trình xây dựng nông thôn mới, mỗi xã đều phải lập đề án, trong đó có cả quy hoạch sử dụng đất! Rồi quy hoạch kinh tế, quy hoạch khu trung tâm xã tối thiểu phải 15-20 hécta. Riêng tiền bồi thường đất thôi ít nhất đã mất 40 tỉ đồng, lấy đâu ra tiền xây dựng xã nông thôn mới? Trong khoảng 1.300 xã ở Đồng bằng sông Cửu Long, có 40% trạm y tế xã không đạt chuẩn (tối thiểu 1.500m2), vậy nhưng xã nào cũng phải làm đề án xã nông thôn mới, giá thấp nhất cho một đề án như vậy là 150 triệu đồng, nhưng thực hiện xong thì chỉ để đó chứ chẳng làm gì".
Những đề án quy hoạch cấp tỉnh. Quy hoạch chưa thực sự gắn với quyền lợi người dân. Vì sao tỉnh nào cũng muốn đầu tư?
Đề án "xã nông thôn mới" đã vậy, chuyện quy hoạch ở cấp tỉnh thành cũng nặng tính hình thức. Các vị khách mời cho biết họ từng được tham dự các buổi giới thiệu đề án quy hoạch cấp tỉnh, có lần phải chứng kiến cảnh "Hồn Trương Ba da hàng thịt", nghĩa là trang đầu bản quy hoạch ghi rõ tỉnh B nhưng các trang trong còn để lại tên của tỉnh T, rồi một tỉnh bị khóa chặt hoàn toàn trong đất liền nhưng lại có "kinh tế biển". Đã có một sự sao chép! Ông Nguyễn Văn Sơn mô tả: "Một bản quy hoạch cấp tỉnh dày chừng 100 trang giấy thì phần về khí hậu, thời tiết, dân số chiếm vài chục trang, rồi bối cảnh thế giới, chủ trương nghị quyết từ trung ương đến địa phương cũng vài chục trang nữa. Phần đi vào thực tế không còn bao nhiêu cả".

Tranh Hoàng Tường.
Ông Huỳnh Bửu Sơn nói: "Rõ ràng đã có một sự khác biệt ngày càng lớn giữa những hoạt động kinh tế thật sự đang diễn ra với những bản quy hoạch kiểu này. Nhiều bản đề án quy hoạch rất xa rời thực tế, người ta làm chỉ để được rót ngân sách mà thôi. Đây là một sự lãng phí lớn cả về thời gian, tiền bạc lẫn nhân lực".
Theo ông Nguyễn Văn Sơn, Liên Hiệp Quốc định nghĩa quy hoạch là một văn bản thể hiện lòng ước muốn của nhân dân và chính quyền ở một vùng lãnh thổ, nhằm đạt một mục tiêu phát triển nào đó một cách khoa học. Chúng ta cũng đang làm theo định nghĩa đó, chỉ có điều đa phần là không thể hiện lòng ước muốn của nhân dân và cũng không mang nghĩa "một cách khoa học".
Luật sư Trương Trọng Nghĩa đưa một ví dụ cụ thể, đó là việc quy hoạch khu Bình Quới - Thanh Đa của TP. Hồ Chí Minh, cách đây hai mươi năm được quy hoạch thành một khu du lịch đô thị mới. Từ lúc có chủ trương, mọi hoạt động giao dịch đất đai trong khu vực bị ngưng lại, người dân không được thay đổi hiện trạng đất đai, nhà cửa, không được mua bán, xây cất, phân hộ phân lô, dù cho có nhu cầu chính đáng. Để thực hiện dự án, trước tiên phải đền bù giải tỏa, làm khu tái định cư để di dời dân, rồi mới kêu gọi các nhà đầu tư. Dự tính là vậy nhưng bao năm rồi mà vẫn bế tắc ngay từ khâu đầu tiên.
Ông Nghĩa nói: "Vừa rồi chúng tôi đề nghị, nên gỡ bỏ quy hoạch đó đi, trừ một số công trình chính như con đường lớn chỗ này, công viên chỗ kia..., còn lại nên cho phép dân được quyền chuyển dịch đất đai. Thế nhưng chính quyền chỉ bỏ quyết định giao đất tái định cư thôi, chứ quy hoạch treo vẫn còn nguyên đó, lý do là vẫn chờ nhà đầu tư mới để thực hiện ý tưởng làm khu du lịch. Thời gian gần đây chính quyền cũng cho phép người dân xây dựng, nhưng nếu bị giải tỏa thì phần xây dựng mới ấy sẽ không được bồi thường".
Có một thực tế là nhiều tỉnh thành rất thích những dự án lớn, quy hoạch khu đô thị lớn kiểu đó. Cũng như gần đây, nhiều tỉnh đua nhau làm nhà máy điện, xây cảng biển, sân bay. Về thực trạng này, ông Lương Văn Lý nhìn nhận từ khâu cấp phép: "Ở các nước, người ta quy định rõ quy hoạch nào thuộc quyền của trung ương, quy hoạch nào do địa phương phụ trách... Ví dụ sân bay quốc tế phải thuộc thẩm quyền quy hoạch của Chính phủ, cả nước cần có bao nhiêu sân bay quốc tế, bao nhiêu cảng biển quốc tế, bao nhiêu cây số quốc lộ, chạy qua tỉnh nào,... Nước ta cũng có quy định, văn bản đàng hoàng, nhưng thực tế lại khác! Các tỉnh nếu có yêu cầu xây cảng hay sân bay thì cứ đưa quy hoạch lên, từ từ sẽ được duyệt, năm này chưa duyệt thì năm sau, năm sau chưa duyệt thì năm sau nữa. Như Vũng Tàu dù chỉ cách TP. Hồ Chí Minh có 120km cũng xin làm sân bay quốc tế. Hay như có ông đại biểu Quốc hội từng phát biểu rất nghiêm túc rằng mỗi tỉnh nên có một thị trường chứng khoán. Với tư duy kiểu đó, thử hỏi nền kinh tế sẽ phân tán đến mức nào!".
Dĩ nhiên, chuyện nhóm lợi ích, tư túi trong đầu tư công là một nguyên nhân, nhưng nếu bỏ qua chuyện có đầu tư thì mới có "ăn", theo ông Lương Văn Lý, nguyên nhân quan trọng nhất khiến việc đầu tư công tràn lan là tỉnh nào cũng muốn đầu tư nhằm đạt được tỷ lệ tăng trưởng GDP theo kế hoạch! Tỷ lệ tăng GDP rất quan trọng, quyết định đến thành tích của cả tỉnh. Chính căn bệnh thành tích cộng với lợi ích kinh tế khiến cho căn bệnh đầu tư tràn lan chưa có thuốc chữa.
Trong một cuộc "đối thoại chính sách" do Đài truyền hình Việt Nam tổ chức gần đây, nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan khi nhận xét về tình trạng đầu tư phân tán này cũng có nhận xét tương tự. Ông Vũ Khoan nói rằng, ông đã đi rất nhiều nước, nhưng chưa thấy ở đâu lại tính toán và đưa ra chỉ tiêu GDP cấp tỉnh như ở nước ta. Ông Nguyễn Văn Sơn thì "lấy làm lạ" rằng cả nước tăng trưởng bình quân GDP hằng năm chỉ 7% mà tỉnh nào lập kế hoạch cũng ra chỉ tiêu tăng trưởng GDP trên 12% cả. Muốn hình dung vì sao có các con số chỉ tiêu GDP, chúng ta hãy nghe ông Sơn: "Quy trình lập kế hoạch một số tỉnh là như thế này, người soạn thảo cho biết GDP năm ngoái chúng ta đạt 100 tỉ đồng, năm nay quyết định tăng 12%, tức là lên 112 tỉ đồng. Chỉ số ICOR cả nước là 7, tỉnh ta chỉ nên ở mức 6 thôi, vì chúng ta đầu tư ít hơn cả nước, vị chi chúng ta cần đầu tư 72 tỉ đồng. Vậy là xong các số liệu chỉ tiêu, rất đơn giản, không cần tính toán, luận chứng kinh tế gì cả".
Mọi người đều cười, ông Lương Văn Lý bổ sung, rằng có thể cuộc họp "lên kế hoạch" ấy sẽ có bàn luận, thêm bớt. Chẳng hạn, một vị gợi ý là GDP năm ngoái tăng 12%, năm nay đúng ra phải hơn con số đó, nhưng tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay thì không nên, chúng ta giảm bớt một chút. Một anh có ý kiến nên là 11%, anh khác bàn lui, 11% chắc không nổi đâu, 10,5% là vừa... Cứ thế, cuối cùng sẽ chọn ra một con số, trình lên lãnh đạo, vị này nói không được, chừng đó tệ quá, phải tăng thêm 1% nữa...
Quy hoạch chồng chéo, vừa đá bóng vừa thổi còi. Chỗ hở từ phía nào?
Không cần giở sổ sách, những con số như đã được sắp xếp sẵn trong đầu ông Vũ Thành Tự Anh, ông nói: "Thống kê cho thấy Việt Nam hiện có trên 100 cảng biển, 22 sân bay trong đó có tám sân bay quốc tế. Hãy thử so sánh, Nhật với 5.500 tỉ đôla GDP chỉ có năm sân bay quốc tế; Mỹ với 14.500 tỉ đôla GDP cũng chỉ có khoảng ba chục cảng quốc tế lớn dù bờ biển của họ dài hơn nước mình nhiều. Về cơ sở hạ tầng công nghiệp, cả nước có 18 khu kinh tế ven biển, 267 khu công nghiệp, 918 cụm công nghiệp với tỷ lệ lấp đầy lần lượt là 4%, 46% và 26%. Đấy là những số liệu để chúng ta hình dung được mức độ phân tán của nền kinh tế.
Thực tế này đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhất, liệu cơ cấu đầu tư như vậy có hợp lý không; thứ hai, tại sao lại xảy ra tình trạng như thế. Câu hỏi thứ nhất đã quá rõ rồi, không thể để tình trạng này tiếp diễn. Ở câu thứ hai, tôi thấy các anh đã đưa ra những ý rất quan trọng. Đầu tiên, đó là chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP đã trở thành thước đo đánh giá quá quan trọng với các tỉnh thành, nên bằng mọi giá họ phải đua nhau đầu tư, bất kể chất lượng tăng trưởng.
Tiếp theo là khâu quy hoạch, khi trên thực tế Thủ tướng đã ban hành hàng chục văn bản chiến lược, hàng trăm quy hoạch (gồm quy hoạch của 63 tỉnh thành và các bộ ngành), rồi vô tận các kế hoạch, đề án, chương trình. Điều đáng nói là những bản quy hoạch này chẳng liên quan gì với nhau, đôi khi còn phủ định lẫn nhau, khiến tất cả trở thành một mớ hỗn độn. Ví dụ, lĩnh vực đất đai có mấy ngành cùng xen vào, giao thông, xây dựng, tài nguyên - môi trường, kế hoạch - đầu tư... Họ cùng làm quy hoạch và không ai chịu ai cả.
Đó là sự phân mảnh, chia cắt về thể chế, làm cho những quyết định từ quan trọng nhất ở cấp trung ương đến cấp địa phương của chúng ta bị chia nhỏ ra thành từng mảnh, nền kinh tế vì thế cũng bị phân mảnh theo. Chưa kể quy hoạch và thực hiện quy hoạch tạo mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng tồn tại và phát triển. Rất nhiều trường hợp đầu tư ở địa phương "chạy" lên trung ương thông qua quy hoạch.
Ở Việt Nam chưa có một sự tách bạch giữa một bên là hành pháp chính trị và bên kia là hành chính công vụ. Nghĩa là chúng ta cho phép vừa đá bóng vừa thổi còi, chẳng hạn ngành y tế vừa quản lý dược phẩm vừa cấp phép luôn ai được nhập hay sản xuất dược phẩm. Tham nhũng tồn tại ở tất cả các bộ ngành, vì tôi quy hoạch cho anh, đương nhiên anh phải chạy đến tôi xin được cấp phép".
Những tồn tại đó do đâu, từ phía trung ương hay địa phương? Ông Tự Anh nói tiếp: "Thống kê cho thấy 50% đầu tư công ở trung ương, 50% ở địa phương. Gần đây khi nói về sự phân tán đầu tư, rất nhiều người nói lỗi ở địa phương, do được phân cấp quyền hành quá rộng rãi nên các tỉnh phá vỡ quy hoạch. Nhưng qua quá trình nghiên cứu ở nhiều địa phương tôi nhận thấy sự thật không hẳn thế. Trung ương phải chịu trách nhiệm chính, vì cấp này có chức năng và công cụ để đảm bảo quy hoạch không bị vỡ, thế mà cứ mỗi lần có quy hoạch mới thì lại thêm nhiều dự án đầu tư bổ sung, như đồng ý cho xây thêm cảng biển, sân bay chẳng hạn. Vấn đề là kỷ cương về mặt quy hoạch, tài khóa của chúng ta quá lỏng lẻo, chính điều này dẫn đến mọi vấn đề liên quan - thâm hụt ngân sách, phân tán đầu tư, nguồn lực".
Ông Lương Văn Lý rất đồng tình với quan điểm này, ông giải thích thêm, dù địa phương có lợi ích khi xin đầu tư một công trình nào đó, nhưng trung ương là người cầm trịch, nếu thấy không đúng thì phải cương quyết gạt bỏ, đồng thời phân tích cho đơn vị đó hiểu rằng làm như vậy là không được. Nếu nói rằng chính những lợi ích kinh tế kích thích lòng tham của những người nắm quyền thì nước nào cũng có tình trạng này. Vấn đề là ở những nước khác, người ta dùng cơ chế luật pháp rõ ràng để khống chế hoặc hạn chế không cho lòng tham ấy thể hiện.
Những việc có thể làm ngay. Phát triển kinh tế địa phương trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế từng vùng
Các vị khách mời đều thống nhất rằng quy hoạch vẫn rất quan trọng đối với mọi nền kinh tế, nhưng không phải theo cách mà nhiều địa phương ở nước ta đang làm. Chính kiểu quy hoạch duy ý chí, có nơi còn bị lợi dụng để mưu cầu lợi ích cá nhân là nguyên do khiến nền kinh tế bị trì trệ. Theo ông Vũ Thành Tự Anh, để nhận ra điều này không khó, nhưng không nhiều người muốn thay đổi cơ chế đó vì khi thay đổi thì lợi ích của họ sẽ bị mất đi.
Theo luật sư Trương Trọng Nghĩa, việc chúng ta để cho lương công chức quá thấp trong một thời gian dài chính là một nguyên nhân quan trọng khiến tình trạng tham nhũng, phá vỡ quy hoạch, phân tán nguồn lực kinh tế diễn ra. Suốt mấy chục năm qua, hầu như không ai sống được bằng lương nhà nước cả, nên người ta phải sống bằng nguồn khác. Chính nguồn khác này làm méo mó mọi thứ. Singapore đã giải quyết rất tốt điều này từ thời Thủ tướng Lý Quang Diệu, khi lương của công chức bằng hoặc cao hơn so với khu vực tư nhân.
Tất nhiên, để thay đổi gốc rễ vấn đề là chuyện quá khó, nhưng vẫn có những biện pháp trước mắt có thể giúp hạn chế phần nào tiêu cực xảy ra. Ông Lương Văn Lý đề nghị những người tham gia công tác quy hoạch hoặc tham mưu cho lãnh đạo phải thực sự có năng lực về quy hoạch. Cần cương quyết dẹp bỏ kiểu ngồi họp rồi tự đưa ra con số, thêm thêm bớt bớt mà không dựa vào bất kỳ cơ sở khoa học nào. Người lãnh đạo có thể không đủ chuyên môn để đưa ra những con số, nhưng các chuyên viên cấp dưới cực giỏi sẽ thuyết minh được vì sao năm ngoái GDP tăng 12% mà năm nay thì không thể được. Chúng ta không thiếu chuyên gia giỏi, có điều họ chưa được sử dụng đúng.
Bước tiếp theo, cần phân cấp cụ thể vấn đề nào mang tính chất chiến lược bảo đảm cho sự phát triển lâu dài của đất nước thì phải thuộc thẩm quyền của trung ương. Đứng về mặt luật pháp, tổ chức chính quyền, phải có cơ chế thật chặt chẽ để khi ai đó muốn thay đổi quy hoạch phải gặp nhiều khó khăn, phải thông qua một hội đồng phản biện, nghiêm túc. Ông Nguyễn Văn Sơn đồng tình và cho rằng bên cạnh việc định lại cơ chế, phân quyền giữa trung ương và địa phương, nên có sự phân chia quyền lợi cụ thể, quyền phải đi kèm lợi. Song song đó, hệ thống luật pháp và thực thi pháp luật phải thật sự nghiêm minh. Nếu bắt đầu làm được từng bước đi nhỏ ngay từ bây giờ, chúng ta có quyền hy vọng vào những bước đi lớn hơn.
Một vấn đề cũng quan trọng không kém, theo ông Phan Chánh Dưỡng, đó là tiêu chuẩn đánh giá sự tăng trưởng kinh tế phải đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Không nên lấy con số tăng trưởng GDP của địa phương (thật ra đó là con số không chính xác), càng không thể lấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, thương mại dịch vụ càng cao để đánh giá sự phát triển của địa phương.
Đừng nghĩ nông nghiệp gắn liền với kém phát triển. Chạy theo thành tích kiểu đó sẽ đưa đất nước đến một sự phát triển dị dạng. Mỗi tỉnh có một tiềm năng khác nhau, do đó nhiệm vụ phát triển kinh tế cũng khác nhau. Nên có một bộ tiêu chuẩn đánh giá đúng cho từng địa phương, từng thời kỳ. Phát triển kinh tế của địa phương phải trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế từng vùng là lời giải cho phát triển kinh tế nước ta hiện nay.

Ông Trương Trọng Nghĩa: "Hầu như không ai sống được bằng lương nhà nước cả, nên người ta phải sống bằng nguồn khác"
Ông Phan Chánh Dưỡng: "Mỗi tỉnh có một tiềm năng khác nhau, do đó nhiệm vụ phát triển kinh tế cũng khác nhau"
Ông Nguyễn Văn Sơn: "Nên có sự phân chia quyền lợi cụ thể, quyền phải đi kèm lợi"
Ông Vũ Thành Tự Anh: "Rất nhiều trường hợp đầu tư ở địa phương "chạy" lên trung ương thông qua quy hoạch"
Ông Huỳnh Bửu Sơn: "Nhiều bản đề án quy hoạch rất xa rời thực tế, người ta làm chỉ để được rót ngân sách mà thôi"
Ông Lương Văn Lý: "Vấn đề nào mang tính chất chiến lược bảo đảm cho sự phát triển lâu dài của đất nước thì phải thuộc thẩm quyền của trung ương"


DNNN kém: Hãy để thị trường trừng phạt

"Nếu được lựa chọn thứ tự ưu tiên trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, tôi sẽ thiết lập cơ chế minh bạch hóa, công khai hóa thông tin các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước", TS. Nguyễn Đình Cung, chia sẻ.
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ, TS. Nguyễn Đình Cung, trao đổi với phóng viên Diễn đàn Kinh tế Việt Nam - báo VietNamNet, quanh vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam - những việc cấp thiết cần hành động ngay.
Cương quyết giảm đặc quyền, đặc lợi
- Thưa ông, đã có ý kiến cho rằng tầm vóc của chương trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng này tựa như công cuộc đổi mới năm 1986, ông đánh giá thế nào về điều này?
TS. Nguyễn Đình Cung: Trước tiên, năm 1986, tôi chưa phải là người trải nghiệm, là người trong cuộc thời kỳ ấy đổi mới ấy. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, bất cứ sự thay đổi ở thời điểm nào cũng là sự giằng co đấu tranh giữa các bên liên quan, là sự giằng co của tư duy ngay cả trong từng cá nhân một. Đây là sự thay đổi không dễ dàng gì.
Năm 1986, có một cái khó so với hiện nay bởi đó là sự thay đổi có tính hệ thống, thay đổi cả ý thức hệ, chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế theo thể chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự đồng thuận cao trong chính sách. Còn ngày hôm nay, sự thay đổi có bản chất là việc nâng cấp nền kinh tế thị trường hoàn thiện và hiệu quả hơn.

TS. Nguyễn Đình Cung (ảnh Phạm Huyền)
Tuy nhiên, sự thay đổi ấy sẽ không thể mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, có lẽ phải chấp nhận có sự hoán đổi giữa lợi ích ngắn hạn và lợi ích trung, dài hạn, có thể phải hi sinh lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ để có được lợi ích chung, lợi ích toàn cục. Cuộc thay đổi này sẽ có người được, người mất.
Trong khi đó, chúng ta còn phải thực hiện đồng thời với hai nhiệm vụ lớn khác, xuất phát từ điều kiện hiện nay, là phải kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Mức độ khó khăn vì thế là vô cùng lớn. Như nếu chúng ta làm được, câu chuyện điều hành kinh tế Việt Nam sẽ sang bước một tầm cao mới, tạo đột phá về chất lượng tổng thể. Vì thế, có người nói đây là cuộc cải cách lớn, cuộc đổi mới lần hai.
- Thưa ông, trong đề án trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã chọn ba lĩnh vực tập trung tái cơ cấu là đầu tư công và cơ chế quản lý phân cấp, doanh nghiệp Nhà nước và lĩnh vực ngân hàng. Phải chăng, đây là 3 lĩnh vực yếu kém nhất và là điểm tắc của sự phát triển hiện nay?
Thứ nhất, cơ chế phân cấp thực chất là cơ chế lợi ích. Nếu để như hiện nay thì rõ ràng không ổn nữa. Tôi không muốn gọi việc tái cơ cấu cơ chế phân cấp là sự thiết lập lại kỷ cương quản lý đầu tư mà chỉ muốn coi, đó là một sự thay đổi tất yếu. Trước đây, chúng ta tập trung quyền về Trung ương quá, sau đó, để phát huy tính năng động của các địa phương nên đã phân cấp quyền cho họ nhiều. Trong quá trình này, chúng ta cũng đạt được những kết quả nhất định nhưng rõ ràng, giờ cơ chế này không còn hợp lý nữa.
Như nguyên bộ trưởng Trần Xuân Giá đã từng nói nhiều và tôi rất ủng hộ quan điểm này, muốn tập trung được nguồn lực hiệu quả thì trung ương phải quyết.
Thực ra, Luật Đầu tư 2005 không nói đến phân cấp mà cơ chế đó nằm trong các Nghị định của Chính phủ. Vì vậy, việc điều chỉnh này thuộc thẩm quyền kiểm soát của Chính phủ nên điều chỉnh sẽ thuận lợi hơn.
Đối với DNNN, lâu nay, chúng ta đã đánh giá tương đối thống nhất là, hoạt động của khu vực này là kém hiệu quả, đầu tư của Nhà nước cũng là kém hiệu quả so với các nguồn đầu tư khu vực khác. Tỷ trọng đầu tư Nhà nước đang chiếm tới hơn 40% tổng đầu tư xã hội. Và do đó là vốn của Nhà nước nên Nhà nước có thể thay đổi nhanh chóng cơ chế quản lý, phân bổ sử dụng nguồn lực này.

Ưu tiên số một nên là công khai, minh bạch hoá hoạt động của các DNNN để tránh đặc quyền, đặc lợi (ảnh P.Huyền)
Ngân hàng là một lĩnh vực không những tác động lớn tới kinh tế vĩ mô mà còn là khu vực huy động và phân bổ nguồn lực của cả mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Cải thiện hệ thống này thì chính là cải cách được kênh quản lý, sử dụng vốn rất lớn của toàn dân. Nếu chúng ta làm cho nguồn lực này được quản lý vận hành an toàn hơn, sử dụng hiệu quả hơn, thì đồng thời sẽ tác động làm ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn.
Ưu tiên số một là công khai, minh bạch
- Thưa ông, nhiều ý kiến đã nói tái cơ cấu đến nay vẫn chưa đụng đậy. Vào năm 2012, theo ông, Chính phủ phải làm được những gì để được coi là đã bắt tay thực sự và có kết quả?
Năm 2012, rõ ràng bối cảnh hiện nay bắt buộc chúng ta phải có những hành động chính sách cụ thể, phải hành động cụ thể ngay chứ không dừng lại ở định hướng không thôi.
Hai việc mà Chính phủ cần thể hiện được là phân bổ vốn đầu tư và cơ chế phân cấp. ở năm 2012, việc phân bổ vốn phải thể hiện dứt điểm mục tiêu tái cơ cấu: tập trung cho dự án thực sự ưu tiên của ưu tiên, lựa chọn của lựa chọn, cấp thiết, sắp hoàn thành để giải quyết được những điểm nghẽn hạ tầng kinh tế.
Việc cụ thể thứ hai là có thể ban hành luật về quản lý đầu tư Nhà nước, sửa đổi luật Ngân sách Nhà nước, điều chỉnh lại các công cụ pháp luật để có chế tài phân bổ nguồn lực tốt hơn.
Nhưng như tôi đã nói, các vấn đề này liên quan đến cơ chế lợi ích nhóm nên cần sự quyết tâm chính trị cao, sự cương quyết mạnh mẽ của những người đứng đầu Chính phủ. Chỉ có điều chỉnh lại việc sử dụng nguồn đầu tư công là tín hiệu rõ nhất cho thấy tái cơ cấu nền kinh tế đang được thực thi.
Tỷ trọng đầu tư Nhà nước vẫn đang chiếm tới hơn 40% tổng đầu tư xã hội (ảnh P.Huyền)
- Thưa ông, điểm nóng nhất của chất lượng nền kinh tế nằm ở các DNNN độc quyền. Vậy, tái cơ cấu khu vực này nên bắt đầu từ đâu?
Năm 2012, nếu được chọn ưu tiên số một, tôi sẽ chọn cơ chế công khai hóa, minh bạch hóa thông tin đối với tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Nhà nước phải ban hành cơ chế này. Tôi nghĩ rằng, đây là ưu tiên số một trong rất nhiều việc phải làm để tái cơ cấu nền kinh tế nói chung.
Đây là việc dễ làm, ít tốn kém nhất và có tác động lớn. Khi áp dụng được cơ chế này, các DNNN công khai thông tin như trên thị trường chứng khoán thì đó sẽ là sức ép buộc các ông chủ quản lý ở đó cũng phải ứng xử theo cơ chế thị trường, những thứ đặc quyền, đặc lợi sẽ phải bộc lộ ra và khi đó, thay đổi để giảm đi những đặc quyền đặc lợi đó sẽ dễ hơn.
Nếu được chọn tiếp ưu tiên số hai, tôi lưỡng lự giữa hai vấn đề: một là, thiết lập một thể chế tập trung thống nhất, chuyên nghiệp, có hiệu lực, hiệu quả quyền chủ sở hữu của NN tại các DNNN; hai là, thiết lập một cơ chế buộc DNNN phải xóa hết mọi ưu đãi, đặc quyền đặc lợi, buộc họ cạnh tranh theo cơ chế thị trường và họ sẽ bị trừng phạt đầy đủ bởi cơ chế thị trường nếu hoạt động kém.
Tuy nhiên, vì đây là hai việc không dễ làm, mặc dù sẽ có tác động rất lớn nên tôi lưỡng tự và chỉ xếp thứ tự ưu tiên sau.
Nếu năm 2012 làm được việc này thì tôi cho là sẽ một bước tiến lớn trong quản lý DNNN. Cơ chế đó buộc các DN này phải theo chuẩn mực quản lý, và nếu họ theo tiêu chuẩn quốc tế thì còn là một bước tiến cao nữa. Chỉ có minh bạch thông tin thì cơ chế thị trường mới vào được, nhiều thứ lợi ích nhóm sẽ bị hạn chế, triệt tiêu.
DNNN hay vin vào chuyện nhập nhằng giữa nhiệm vụ công ích và nhiệm vụ kinh doanh. Nhưng khi minh bạch ra, ta sẽ nắm được nhiệm vụ nào đáng giao, nhiệm vụ nào làm được và khi đó, nếu DNNN bị giao quá nhiều nhiệm vụ công ích chẳng hạn thì mọi người cũng sẽ nắm được giá phải trả cho việc đó ở mức nào?


Năm 2012: Tránh nôn nóng với tăng trưởng

Với mục tiêu GDP từ 6-6,5% cao hơn năm 2011, hai kịch bản kinh tế năm 2012 vẫn cho thấy một tín hiệu thiên về tăng trưởng. Trọng tâm của năm tới phải là giảm lạm phát. Tái cơ cấu nền kinh tế cần được hành động ngay.

Hai kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2012 và giai đoạn 5 năm 2011-2015 đã được Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội song, vẫn chưa nhận được sự đánh giá cao của các chuyên gia kinh tế.
Có ba điểm mà nhà nghiên cứu rất sốt ruột cho công tác quản trị nền kinh tế của Chính phủ. Thứ nhất, chống lạm phát trở thành một cuộc chiến trường kỳ nhiều năm nhưng điều mà người ta nhìn thấy triền miên là khoảng cách thường rất xa giữa mục tiêu và thực tế đạt được. Thứ hai, tuy Chính phủ tuyên bố chắc nịch về sự ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô nhưng mục tiêu GDP vẫn theo lô-gic năm sau phải cao hơn năm trước. Thứ ba, tái cấu trúc nền kinh tế đã được nhắc tới rất cấp bách từ 3 năm trước, năm nay tiếp tục nhắc đến và thực tế là chưa thấy khởi động gì.
Vì lẽ đó, một cuộc cải cách toàn diện là vô cùng cần thiết cho năm 2012 nhằm tạo bước đột phá, khởi đầu cho việc thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 5 năm.
Cần khiêm tốn hơn khi nghĩ tới tăng trưởng
Tạp chí Economist đã đánh giá, Việt Nam có nguy cơ là một trong 7 nền kinh tế tăng trưởng nóng cao nhất thế giới. Mối lo về căn bệnh chạy đua tăng trưởng không phải vô cớ.
Chuyên gia Phạm Chi Lan thẳng thắn cho rằng: "GDP năm tới không nhất thiết là 6 và trên 6% như vậy. GDP chỉ cần 5-5,5%. Điều đó còn tốt hơn là tăng trưởng mà lạm phát vẫn không kiềm chế được".

Tình hình kinh tế năm nay không cho phép chúng ta chạy đua với mục tiêu tăng trưởng (ảnh P.Huyền)
"Từ năm 1991 đến nay, 2011 là năm kinh tế khó khăn nhất song Chính phủ vẫn đặt mục tiêu GDP năm sau vẫn cao hơn cả năm trước là khó khả thi. Lối tư duy này khác nào phát đi một tín hiệu cho các địa phương, các bộ ngành, các DNNN rằng cần tăng trưởng lớn. Hệ quả sẽ là các động thái đề xuất những dự án lớn hoặc các nơi vẫn chần chừ lờ đi việc cắt giảm vốn công", bà Phạm Chi Lan phân tích.
Chính phủ nên hoạch định một mức GDP khiêm tốn thực sự để ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Quan điểm này có sự đồng thuận cao trong cộng đồng các chuyên gia kinh tế hiện nay.
TS. Lê Đăng Doanh cũng chia sẻ, tình hình kinh tế năm nay không cho phép chúng ta chạy đua với mục tiêu tăng trưởng. Các doanh nghiệp đều bị thấm mệt, ngấm đòn lạm phát. Nhiều doanh nghiệp đã giảm lao động, chỉ chạy dưới 50% công suất sản xuất.
Không thể hi vọng năm tới có tăng trưởng cao! Theo ông, kịch bản xấu hơn, GDP năm 2012 đạt 6% có lẽ sẽ là lựa chọn khả thi hơn.
Điều mà các nhà hoạch định chính sách cần kiên trì hướng tới là phải thiết lập lại các cân đối kinh tế vĩ mô như giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, giảm thâm hụt thương mại và đặc biệt, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Trong đó, kiềm chế lạm phát là việc cần làm nhất.
Lạm phát còn một chữ số: Mục tiêu cách xa hiện thực
Thay vì đánh giá cao một quyết tâm chính trị mạnh mẽ như vậy, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lo ngại: "Cuối năm ngoái, Chính phủ đặt mục tiêu về lạm phát năm nay là 7% thì thực tế dự kiến lên tới 18%. Ngay từ tháng 2, Chính phủ đã đưa ra nhóm 6 giải pháp kiềm chế lạm phát, dấy lên một tinh thần điều hành quyết liệt nhưng kết quả vẫn chưa được như mong đợi!".
"Vì thế, tôi không nghĩ nên đặt mục tiêu lạm phát quá thấp để rồi lại điều chỉnh như năm nay", bà Lan chia sẻ.
Về câu chuyện này, tại một cuộc hội thảo về kinh tế vĩ mô tuần trước do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, TS. Trần Đình Thiên không ngần ngại cho rằng: Cách thức chống lạm phát vừa qua giống như là việc đi chữa cháy. Chính phủ điều hành theo kiểu chạy theo mục tiêu lạm phát động, nặng hành chính.

Cần có những hành động thiết thực trong việc tái cấu trúc nền kinh tế (ảnh P.Huyền)
Một yếu tố đáng lưu tâm là chi phí đẩy của nền kinh tế năm 2012 rất lớn, như việc thị trường hóa các mặt hàng điện, xăng dầu sẽ khiến giá điện, xăng tăng lên, tiền lương tăng theo lộ trình (từ 830.000-1.050.000 đồng/người/tháng), giá lương thực cũng có xu hướng leo thang mà dư địa chính sách không còn nhiều.
Tái cấu trúc: Hành động khẩn cấp
Tám nhóm giải pháp năm 2010 và sáu nhóm giải pháp năm nay đều đề cập đến một ý lớn: tái cấu trúc nền kinh tế, cụ thể hơn là kiểm soát đầu tư công, chi tiêu công, phân bổ lại nguồn lực, cải cách doanh nghiệp Nhà nước... Nhưng trên thực tế, công cuộc tái cấu trúc này được cho là chưa hề chuyển động.
Điều này càng chứng tỏ, những việc ngắn hạn, tình thế thì dễ làm hơn như cải cách chính sách tiền tệ, kiềm chế cung tiền, hạn chế tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, nỗ lực đó không đủ để cho năm 2012 kiểm soát tốt lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý, nếu như các giải pháp căn cơ không được hoạch định mạnh mẽ.
Theo các chuyên gia kinh tế, lĩnh vực cần đột phá cho năm 2012 là chính sách tài khóa. Cho tới năm nay, chính sách tài khóa và tiền tệ vẫn không đồng bộ với nhau. Các hiệu ứng của chính sách tiền tệ để hạ nhiệt lạm phát vì thế không toàn diện và lâu bền.
Không lạc quan chút nào, TS Trần Đình Thiên đã cho rằng, tình thế hiện nay là "khẩn cấp" rồi, và không thể tiếp diễn cách cũ. Căn bệnh của nền kinh tế - nghiện đầu tư, thèm dự án, đói tài nguyên - đã ăn sâu vào cơ cấu bên trong, trở thành căn bệnh cơ cấu. Sẽ không thể chống được lạm phát, tái lập ổn định vĩ mô, khôi phục và xác lập cơ sở tăng trưởng hiện đại nếu không thay đổi hệ thống phân bổ nguồn lực, cũng như hiện nay, không thể giảm nhập siêu chủ yếu bằng công cụ tỷ giá.
Trong ngắn hạn, ưu tiên gấp là giảm lạm phát nhưng phải tránh việc chạy theo mục tiêu "động". Về dài hạn, tổng thế nền kinh tế là công cuộc tái cấu trúc với hệ mục tiêu ưu tiên của đầu tư công cần bảo đảm tính trọng điểm.
"Tuy nhiên, liệu năm 2012, việc tái cấu trúc có thực sự được bắt tay ngay làm ngay không thì tôi chưa biết, chưa thấy tín hiệu", bà Phạm Chi Lan nói thêm. Bà cho rằng, khi mà việc có bắt tay tái cấu trúc ngay hay không hay việc này Chính phủ mới đang giao các bộ ngành chuẩn bị thì khó mà có mức GDP 6-6,5% và lạm phát dưới 10% như vậy.
Theo đó, nhóm 6 giải pháp ở Nghị quyết 11 cần tiếp tục thực hiện trong năm tới một cách cương quyết mạnh mẽ với tâm điểm mở đầu là chính sách tài khóa thắt chặt, đồng bộ với chính sách tiền tệ, nâng cao hiệu quả đầu tư công một cách thực chất hơn.
Bên cạnh đó, dù hai kịch bản kinh tế dựa trên nền tảng dự báo tình hình kinh tế thế giới song mọi phán đoán đều là chủ quan, khó lường được trước mọi vấn đề tác động tới Việt Nam. Vì thế, các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu cụ thể, xem xét trực tiếp kỹ lưỡng tới các ngành kinh tế trong nước một cách thấu đáo hơn.
Kịch bản 1: Kinh tế thế giới hồi phục và tăng trưởng chậm lại, năm 2012, GDP 6,5%. Nhập siêu 13,1 tỷ USD, khoảng 13% xuất khẩu. Bội chi ngân sách bằng 4,8% GDP. CPI dưới 10%.
Giai đoạn 2011-2015, GDP bình quân 7%/năm, năm 2013-2015 cao hơn 2012 (6- 6,5%). Nhập siêu khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu. Nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP. Bội chi ngân sách 4,5% GDP. CPI dưới 7%.
Kịch bản 2: Kinh tế thế giới suy thoái và thậm chí khủng hoảng: năm 2012, GDP 6%. Nhập siêu 13,6 tỷ USD, bằng 13,5%/kim ngạch xuất khẩu. Bội chi ngân sách 4,8% GDP. CPI dưới 10%.
Giai đoạn 2011-2015, GDP bình quân là 6,5%/năm. Nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP. Nhập siêu dưới 13%/kim ngạch xuất khẩu. Bội chi 4,5% GDP và CPI dưới 7%.