Từ “Chiến tranh lạnh” (Cold War) được nhà văn Anh George Orwell sử dụng
đầu tiên trong bài tiểu luận “You and the Atomic Bomb” đăng trên báo Tribune vào tháng 10 năm 1945; sau đó, trở thành phổ biến rộng rãi khi Walter Lippmann xuất bản cuốn sách nhan đề The Cold War
vào năm 1947. Nó được dùng để chỉ sự căng thẳng về cả chính trị lẫn
quân sự giữa hai khối tư bản (đứng đầu là Mỹ) và khối Cộng sản (đứng đầu
là Liên Xô) kéo dài từ năm 1947 đến năm 1991. Cả hai siêu cường quốc
đứng đầu hai khối, Mỹ và Liên Xô, đều muốn làm bá chủ thế giới. Nhưng cả
hai đều biết, với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của mình, nếu thực sự
đánh nhau, sẽ không có ai thắng ai cả: Cả hai đều cùng bị tiêu diệt. Bởi
vậy, người ta chọn hai cách khác để đánh nhau: Một, sử dụng chiến tranh
tâm lý; và hai, tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ ở một số nước với
sự giúp đỡ của hai siêu cường quốc lãnh đạo, trong đó, nổi bật nhất là
cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950-53) và chiến tranh ở Việt Nam
(1954-75). Ngoài hai cách đánh nhau ấy, cả hai đều cạnh tranh ráo riết
trên các mặt trận khác, từ ngoại giao đến kinh tế và đặc biệt, nâng cấp
các kho vũ khí hạt nhân của mình.
Năm 1989, sau khi Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, bức tường Berlin bị
sụp đổ, và chế độ Cộng sản bị phá sản ở tất cả các quốc gia Đông Âu,
Tổng thống George H.W. Bush tuyên bố tại cuộc hội nghị thượng đỉnh ở
Malta là Chiến tranh lạnh đã kết thúc.
Gần hai thập niên sau đó, thế giới vẫn còn chiến tranh, dĩ nhiên. Nhưng
chiến tranh ấy thuộc ba loại: Một, nội chiến giữa các phe phái trong một
nước (ví dụ, ở Congo, từ 1991-97; Tajikistan, 1992-96; Algeria,
1992-99; Burundi, 1993-2005; Rwanda, 1994; Côte d’Ivoire, 2002; Syria,
2012-13); hai, giữa hai nước (ví dụ, Nga và Chechnya, 1991-2009; Armenia
và Azerbaijan, 1991-94; Ethiopia và Eritrea, 1998-2000); và ba, chiến
tranh giữa một khối liên minh lớn trên thế giới với lực lượng thù nghịch
ở một nước nào đó (ví dụ, chiến tranh ở Vùng Vịnh năm 1991, ở
Afghanistan, từ 2001, và ở Iraq, 2003-2011). Ở hình thức chiến tranh thứ
ba, khối đồng minh bao giờ cũng do Mỹ lãnh đạo, phần lớn được sự đồng
thuận và sự tham gia của rất nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Một
số quốc gia phản đối, nhưng hầu hết đều chỉ phản đối về phương diện
ngoại giao và với mức độ vừa phải, không gây nên những mâu thuẫn quá
trầm trọng. Hầu như mọi người đều thừa nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối
của Mỹ.
Gần đây, với sự trỗi dậy của Trung Quốc, tình hình dần dần đổi khác. Về
mọi phương diện, từ kinh tế đến khoa học kỹ thuật và quân sự, Trung Quốc
vẫn còn thua Mỹ rất xa. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước dần dần đi từ
chỗ hợp tác đến đối kháng. Gần đây, một số nhà bình luận chính trị quốc
tế bắt đầu nói đến một thứ Chiến tranh lạnh giữa hai nước.
Chính Tổng thống Mỹ, Barack Obama, hầu như cũng thừa nhận điều đó trong chuyến viếng thăm châu Á vào tháng 11 năm 2011.
Hình thức Chiến tranh lạnh mới này khác hình thức Chiến tranh lạnh kiểu cũ, giữa Mỹ và Liên Xô, ở nhiều điểm.
Thứ nhất, về nguyên nhân, trong khi Chiến tranh lạnh kiểu cũ bắt nguồn,
trước hết, từ những mâu thuẫn về ý thức hệ, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa Cộng sản, hình thức Chiến tranh lạnh kiểu mới chỉ bắt nguồn từ
những mâu thuẫn về quyền lợi, chủ yếu là quyền lợi kinh tế và địa chính
trị của mỗi nước.
Thứ hai, về thế, trong Chiến tranh lạnh kiểu cũ, mỗi bên đều có một khối
liên minh quân sự đông đảo, tính về nhân số, hầu như ngang ngửa nhau;
trong Chiến tranh lạnh kiểu mới này, chỉ có Mỹ là có liên minh, không
những các liên minh cũ ở châu Âu mà còn có thêm nhiều các liên minh mới ở
châu Á, còn phía Trung Quốc, cho đến nay, vẫn chỉ một mình. Lý do chính
là, trên nguyên tắc, một liên minh thực sự chỉ có thể được xây dựng
trên nền tảng những bảng giá trị chung mà mọi quốc gia đều chia sẻ. Về
phương diện ấy, Mỹ có: Đó là những lý tưởng về tự do, dân chủ và nhân
quyền; còn Trung Quốc thì không: Những lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã bị
phá sản, chính bản thân Trung Quốc cũng không còn tin tưởng hay đề cao
nữa; họ chỉ còn sử dụng quyền lợi để lôi kéo các nước khác, hầu hết là
các nước nghèo ở châu Phi và châu Á. Loại đồng minh kiểu đó chỉ có ít
nhiều giá trị trong việc buôn bán nhưng nếu chiến tranh bùng nổ, nó hoàn
toàn vô nghĩa.
Thứ ba, về lực, trong chiến tranh lạnh kiểu cũ, Mỹ và Liên Xô hầu như
ngang ngửa nhau; trong chiến tranh lạnh kiểu mới, Trung Quốc vẫn còn
thua hẳn Mỹ ít nhất là vài ba thập niên. Thua về số vũ khí. Thua về
trình độ kỹ thuật, và từ đó, hiệu quả tác chiến. Thua về kinh nghiệm tổ chức và chiến đấu.
Chính vì thế, hầu hết các nhà bình luận đều cho Trung Quốc chưa phải là
một sự đe dọa đối với nền an ninh của Mỹ trong hiện tại. Việc Mỹ bố trí
lại quân đội, đặc biệt là lực lượng hải quân ở vùng châu Á - Thái Bình
Dương, chủ yếu là để chuẩn bị cho một chiến lược lâu dài hơn là để đáp
ứng một nhu cầu khẩn thiết trước mắt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
là nguy cơ chiến tranh không có. Nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan, Nhật
Bản hoặc Philippines, Mỹ không thể khoanh tay ngồi nhìn. Trung Quốc có
thể tấn công ba nước ấy không? Bình thường, chỉ cần tỉnh táo một tí,
người ta đều biết là không. Nhưng lịch sử lại dạy chúng ta một điều:
Không thể nói chắc được. Khi chơi với lửa, không ai có thể cam đoan là
nó sẽ không bùng cháy và thiêu rụi một cái gì đó. Chỉ cần một hành động
nóng nảy hoặc dại dột của một người lính hải quân nào đó, hai bên có thể
sẽ đánh nhau, thoạt đầu giữa hai tàu chiến, sau đó, giữa hai nước; và
sau đó nữa, giữa hai khối. Trên thế giới, từ trước đến nay, vẫn có những
cuộc chiến bùng nổ vì những lý do lãng nhách như vậy.
Thứ tư, về hình thức. Trong khi chưa có tiếng súng nào giữa Mỹ và Trung
Quốc, nhiều nhà bình luận cho một hình thức chiến tranh lạnh đã thực sự
nổ ra giữa hai nước, thậm chí, giữa Trung Quốc và cả khối tự do do Mỹ
đứng đầu, bao gồm tất cả các quốc gia phát triển và dân chủ ở châu Âu và
Úc. Cuộc chiến ấy diễn ra trên mạng.
Từ lâu, người ta đã biết Trung Quốc chuyên đi đánh cắp các phát minh kỹ
thuật từ Mỹ và Tây phương nói chung. Bực thì bực, nhưng người ta vẫn xem
đó là chuyện bình thường. Thật ra, nước nào cũng vậy, cũng đều có đội
ngũ tình báo kinh tế lúc nào cũng tất bật hoạt động, không phải chỉ nhắm
vào đối thủ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu là còn, nhắm vào các
đồng minh thân thiết nhất của mình. Đó chỉ là một quy luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc đánh cắp kỹ thuật của Trung Quốc càng ngày càng vượt quá
những giới hạn thông thường. Quá về mức độ: Họ ăn cắp hầu như mọi thứ,
từ kỹ thuật tin học đến khoa học không gian, viễn thông, năng lượng,
điện tử, tài chính… Bọn tin tặc của họ thâm nhập vào máy điện toán của
các nhà khoa học, các công ty và xí nghiệp lớn nhỏ ở Mỹ và ở Tây phương
để ăn cắp các dự án nghiên cứu và các tài liệu liên quan đến kế hoạch
phát triển. Thậm chí, nhiều người từ Tây phương sang Trung Quốc họp hành
bị công ty cấm sử dụng laptop hoặc cả điện thoại di động; hoặc nếu phải
sử dụng, sau khi về nước, phải đưa các thứ đó cho nhân viên an ninh
mạng “tẩy trùng”. Quá ở phạm vi: Không dừng lại ở lãnh vực kinh tế, đám
tin tặc Trung Quốc còn thường xuyên quấy nhiễu các website cũng như máy
điện toán của chính phủ hoặc các cơ quan an ninh, quốc phòng và ngoại
giao Tây phương. Quá ở tổ chức: chính phủ Trung Quốc luôn luôn chối bỏ
các lời cáo buộc liên quan đến việc ăn cắp của mình, nhưng các cơ quan
an ninh mạng của Mỹ, đặc biệt là Mandiant, mới đây đã đưa ra những bằng
chứng cụ thể cho thấy các hành vi ăn cắp ấy đều xuất phát từ cả ngàn
nhân viên tin tặc thuộc Quân đội Nhân dân Trung Quốc, được thành lập từ
năm 2006 và đặt tên là đơn vị 61398, có trụ sở là một tòa nhà 12 tầng ngay tại Thượng Hải.
Người ta thường phân biệt tin tặc thành hai loại: Có tổ chức và không có
tổ chức. Phần lớn tin tặc chỉ là những kẻ không có tổ chức: đó chỉ là
những kẻ giỏi về tin học, lại thích nghịch ngợm, hay đi lang thang trong
thế giới ảo, khám phá hoặc rình ngó chỗ này chỗ khác. Khi việc nghịch
ngợm của họ có thể gây hại cho người khác, họ có thể bị bắt và bị bỏ tù.
Thuộc loại tổ chức, có hai giới hạn: tổ chức xã hội hoặc kinh tế nhằm
phục vụ cho lợi ích của nhóm hoặc của công ty và tổ chức chính phủ.
Trong hai loại tổ chức ấy, dĩ nhiên loại tổ chức của chính phủ được xem
là nghiêm trọng hơn. Khi tổ chức chính phủ ấy lại nằm trong tay quân
đội, ý nghĩa thay đổi hẳn: Nó được xem là một sự tấn công dưới hình thức
phi-vũ trang.
Chữ “phi-vũ trang” ở trên rất dễ gây hiểu lầm. Trước, theo cách hiểu
thông thường, phi-vũ trang được được xem là vô hại. Nhưng những cuộc tấn
công trên mạng internet thì lại rất lợi hại. Thực chất, đó là một thứ
vũ khí mới đến độ Leon Panetta, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, phải lên
tiếng cảnh báo: Nếu Đệ nhị Thế chiến bắt đầu bằng trận chiến ở Trân
Châu Cảng; Đệ tam Thế chiến có thể sẽ bắt đầu bằng một trận Trân Châu Cảng ảo trên internet (cyber Pearl Harbour).
Cuộc tấn công của tin tặc Trung Quốc nhắm vào Mỹ và Tây phương như thế
đặt Mỹ và Tây phương vào thế bất lợi. Thứ nhất, họ chỉ ở thế phòng thủ,
luôn luôn phòng thủ. Hơn nữa, ở đây, “mặt trận” lại quá rộng, bao gồm
không những các cơ quan chính phủ mà còn mọi công ty xí nghiệp và cơ
quan nghiên cứu: Không phải ở đâu cũng có khả năng chống đỡ lại đám tin
tặc chuyên nghiệp ấy. Thứ hai, Mỹ và Tây phương không thể phản công: về
phương diện khoa học kỹ thuật, Trung Quốc không có gì đáng để người ta
sử dụng tin tặc để đánh cắp cả. Chả lẽ người ta lại đánh cắp lại những
thứ mà Trung Quốc ăn cắp của họ?
Không những bất lợi, Mỹ và Tây phương còn ở thế khó xử: Người ta không
thể công khai tuyên chiến với một nước chỉ vì một đám tin tặc dù người
ta biết rõ đám tin tặc ấy nằm trong quân đội và do nhà nước quản lý.
Nhưng người ta không thể im lặng và chịu đựng mãi. Trước, trong nhiều
năm, Mỹ và các quốc gia Tây phương đã chịu đựng và im lặng. Nay, người
ta bắt đầu lên tiếng, nêu đích danh Trung Quốc là một tên ăn cắp và quấy
phá trên mạng. Lên tiếng như thế cũng là một cách tuyên chiến.
Dĩ nhiên, đó không phải là chiến tranh nóng. Đó chỉ là một kiểu Chiến
tranh lạnh. Nhưng vì kiểu Chiến tranh lạnh này khác hẳn cuộc chiến tranh
lạnh kéo dài cả nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa Cộng sản
trước đây, nên David Rothkopf, biên tập viên tạp chí Foreign Policy, đề
nghị một tên gọi mới: Chiến tranh mát (the Cool War).
“Mát” ấm hơn “lạnh” một chút. Nhưng dù sao thì cũng vẫn là chiến tranh.
Vậy Chiến tranh Lạnh (1945–1991) là như thế nào?
Tình trạng tiếp nối xung đột chính
trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II
(1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia vệ tinh của
nó, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ. Dù các
lực lượng tham gia chủ yếu không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể
hiện sự xung đột thông qua các liên minh quân sự, những cuộc triển khai
lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, tình
báo, chiến tranh uỷ nhiệm, tuyên truyền, và cạnh tranh kỹ thuật, như
cuộc chạy đua không gian.
Dù là các đồng minh chống lại Phe trục,
Liên xô, Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp đã không đồng thuận trong và sau Thế
chiến II, đặc biệt về việc thiết lập thế giới thời hậu chiến. Khi cuộc
chiến kết thúc, họ chiếm hầu hết châu Âu, với việc Hoa Kỳ và Liên xô là
các lực lượng quân sự mạnh nhất.
Liên xô lập ra Khối Đông Âu với
các quốc gia Đông Âu mà họ chiếm đóng, sáp nhập một số trở thành Các
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết và duy trì các quốc gia khác như
nước vệ tinh của mình, một số nước trong số đó sau này được củng cố vào
Khối hiệp ước Warsaw (1955–1991). Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây Âu thành
lập chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản như là chính sách phòng vệ
của họ, và lập ra các liên minh (ví dụ NATO, 1949) cho mục đích đó.
Nhiều
quốc gia trong số đó cũng tham gia vào kế hoạch tái thiết châu Âu, đặc
biệt là Tây Đức, vốn bị Liên xô phản đối. Ở những nơi khác, tại Mỹ
Latinh và Đông Nam Á, Liên xô ủng hộ các cuộc các mạng cộng sản, bị
nhiều nước phương tây và đồng minh trong vùng của họ phản đối; một số
nước tìm cách hạ thấp, với những kết quả khác nhau. Một số nước liên kết
với NATO và Khối hiệp ước Warsaw, tuy thế các khối của những quốc gia
không liên kết cũng xuất hiện.
Cuộc chiến tranh Lạnh có đặc điểm ở
những giai đoạn khá yên tĩnh và những giai đoạn căng thẳng lên cao
trong quan hệ quốc tế – cuộc Phong toả Berlin (1948–1949), Chiến tranh
Triều Tiên (1950–1953), Khủng hoảng Berlin năm 1961, Chiến tranh Việt
nam (1959–1975), Khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), Chiến tranh Xô viết
tại Afghanistan (1979–1989), và những cuộc tập trận Able Archer 83 của
NATO vào tháng 11 năm 1983. Cả hai phía đã tìm cách làm giảm các căng
thẳng chính trị và tránh một cuộc tấn công quân sự trực tiếp, vốn dường
như sẽ dẫn tới một sự tiêu diệt có đảm bảo từ hai phía với các loại vũ
khí hạt nhân.
Trong thập niên 1980, Hoa Kỳ tăng cường sức ép
ngoại giao, quân sự và kinh tế chống lại Liên xô, vốn đang ở tình trạng
trì trệ kinh tế. Sau đó, Tổng thống Liên xô Mikhail Gorbachev đưa ra
những cuộc cải cách tự do perestroika ("tái cơ cấu", "xây dựng lại",
1987) và glasnost ("mở cửa", khoảng năm 1985). Liên bang Xô viết sụp đổ
năm 1991, khiến Hoa Kỳ còn lại là cường quốc quân sự có vị thế thống
trị, và Nga sở hữu hầu hết kho vũ khí hạt nhân của Liên xô.
Sau thế chiến II, “Chiến tranh lạnh" giữa hai siêu cường là Liên xô và Mỹ, chi phối các quan hệ quốc tế.
I. MÂU THUẪN ĐÔNG – TÂY VÀ SỰ KHỞI ĐẦU CỦA “CHIẾN TRANH LẠNH”.
1. Nguồn gốc mâu thuẫn Đông – Tây:
Sau chiến tranh quan hệ Xô – Mỹ chuyển từ liên minh chống phát xít sang thế đối đầu và tình trạng “chiến tranh lạnh”.
* Nguyên nhân: do sự đối lập nhau về mục tiêu và chiến lược.
- Mỹ:
+ Chống phá Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, chống phong trào cách mạng, mưu đồ làm bá chủ thế giới.
+ Lo ngại trước ảnh hưởng to lớn của Liên Xô và Đông Âu, sự thắng lợi
của CHND Trung Quốc, CNXH đã trở thành hệ thống thế giới từ Động Âu
sang Đông Á.
+ Sau CTTG II, là nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử, tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.
- Liên Xô: chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ
những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng
thế giới.
2. Diễn biến “chiến tranh lạnh”:
a. Khởi đầu :12-03-1947, Tổng thống Tru-man gửi thông điệp tới
Quốc hội Mỹ khẳng định: sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với
nước Mỹ và đề nghị viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, biến hai nước này
thành căn cứ tiền phương chống Liên Xô.
Học thuyết Tru-man:
+ Củng cố chính quyền phản động và đẩy lùi phong trào đấu tranh ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ .
+ Biến hai nước này thành tiền đồn chống Liên Xô và Đông Âu.,
b. “Kế hoạch Marshall” (Mác san) (06.1947):
+ Viện trợ 17 tỷ đô la giúp Tây Âu khôi phục kinh tế ,
+ “Kế hoạch Marshall” của Mỹ đã tạo nên sự đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu TBCN và các nước Đông Âu XHCN.
c. Thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ngày
4-4-1949, là liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản phương Tây
do Mỹ cầm đầu chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
- Tháng 1-1949 Liên xô và Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ
- Tháng 5-1955 thành lập Tổ chức Hiệp ướcVác-xa-va (Varsava), một liên
minh chính trị- quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước XHCN châu
Âu.
* Như vậy: sự ra đời của NATO, Vác–xa-va, kế hoạch Mac–san, khối SEV đã
đánh dấu sự xác lập cục diện hai cực, hai phe. “Chiến tranh lạnh” đã
bao trùm toàn thế giới.
II. SỰ ĐỐI ĐẦU ĐÔNG – TÂY VÀ NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH CỤC BỘ ÁC LIỆT
Trong thời kỳ “chiến tranh lạnh”, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc xung
đột quân sự ở các khu vực trên thế giới đều liên quan tới sự “đối đầu”
giữa hai cực Xô – Mỹ.
1. Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp 1945-1954
- Sau CTTG II, thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, nhân dân Đông
Dương kiên cường chống Pháp. Được sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên xô và
các nước Xã hội chủ nghĩa.
- Từ 1950, khi Mỹ can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, cuộc chiến này ngày càng chịu sự tác động của hai phe.
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết
(7/1954) đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của ba nước Đông Dương, nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai
miền ở vĩ tuyến 17. Hiệp định Genève là thắng lợi của nhân dân Đông
Dương nhưng cũng phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe.
2. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953)
- Sau CTTG, Triều Tiên tạm thời chia làm hai miền: Bắc vĩ tuyến 38 do Liên Xô cai quản và phía Nam là Mỹ.
- Năm 1948, trong bối cảnh chiến tranh lạnh, hai miền Triều Tiên đã
thành lập hai quốc gia riêng ở hai bên vĩ tuyến 38, Đại Hàn dân quốc
(phía Nam) và Cộng hòa DCNH Triều Tiên (phía Bắc).
- Từ 1950 – 1953, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ có sự chi viện của Trung Quốc (miền Bắc) và Mỹ (miền Nam).
- Hiệp định đình chiến 1953 công nhận vĩ tuyến 38 là ranh giới quân
sự giữa hai miền. Chiến tranh Triều Tiên là sản phẩm của “chiến tranh
lạnh” và là sự đụng đầu trực tiếp đầu tiên giữa hai phe.
3. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ (1954 – 1975)
- Sau 1954, Mỹ hất cẳng Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm
mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
- Việt Nam đã trở thành điểm nóng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm đẩy lùi phong trào GPDT và làm suy yếu phe XHCN.
- Chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất, phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe.
- Cuối cùng, mọi chiến lược chiến tranh của Mỹ bị phá sản, Mỹ phải ký
Hiệp định Paris (1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; phải rút quân và cam kết không
dính líu về quân sự hoặc can thiệp về chính trị đối với Việt Nam.
- Năm 1975, nhân dân Đông Dương kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ.
III. XU THẾ HÒA HOÃN ĐÔNG TÂY VÀ “CHIẾN TRANH LẠNH” CHẤM DỨT
1. Những biểu hiện của xu thế hòa hoàn Đông – Tây
Đầu những năm 70, xu hướng hòa hoãn Đông – Tây xuất hiện với những cuộc thương lượng Xô – Mỹ.
- Ngày 9/11/1972, hai nước Đức ký kết tại Bon Hiệp định về những cơ
sở quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức làm tình hình châu Âu bớt căng
thẳng.
- 1972, Xô – Mỹ thỏa thuận hạn chế vũ khí chiến lược, ký Hiệp ước ABM
(Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo), SALT-1(Hiệp định hạn chế vũ khí tiến
công chiến lược), đánh dấu sự hình thành thế cân bằng về quân sự và vũ
khí hạt nhân chiến lược giữa hai cường quốc.
- Tháng 8/1975, 35 nước châu Âu và Mỹ, Canađa đã ký Định ước
Hen-xin-ki, khẳng định quan hệ giữa các quốc gia và sự hợp tác giữa các
nước, tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình,
an ninh ở châu lục này.
- Từ 1985, nguyên thủ Xô – Mỹ tăng cường gặp gỡ, ký kết nhiều văn
kiện hợp tác kinh tế – KHKT, trọng tâm là thuận thủ tiêu tên lửa tầm
trung châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược vàhạn chế chạy đua vũ trang.
2. Chiến tranh lạnh kết thúc
Tháng 12/1989, tại Man –ta (Malta- Địa Trung Hải ), Xô – Mỹ tuyên bố
chấm dứt “chiến tranh lạnh” để ổn định và củng cố vị thế của mình.
* Nguyên nhân khiến Xô – Mỹ kết thúc “chiến tranh lạnh”:
- Cả hai nước đều quá tốn kém và suy giảm “thế mạnh” nhiều mặt.
- Đức, Nhật Bản, Tây Âu vươn lên mạnh, trở thành đối thủ cạnh tranh gay gắt với Mỹ.
- Liên Xô lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Xô –Mỹ thoát khỏi thế đối đầu để ổn định và củng cố vị thế của mình .
* Ý nghĩa: chiến tranh lạnh chấm dứt mở ra chiều hướng giải quyết hòa
bình các vụ tranh chấp, xung đột ở nhiều khu vực: Afganistan, Campuchia,
Namibia…
IV. THẾ GIỚI SAU “CHIẾN TRANH LẠNH”
- Từ 1989 – 1991, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã.
- Ngày 28/6/1991, khối SEV giải thể
- 01/07/1991, Tổ chức Varsava chấm dứt hoạt động .
- Trật tự “hai cực” Yalta sụp đổ, phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở
châu Âu và châu Á mất đi, ảnh hưởng của Mỹ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi.
- Từ 1991, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp:
+ Trật tự hai cực I-an-ta sụp đổ .Một trật tự thế giới đang dần dần hình thành theo xu hướng đa cực.
+ Các quốc gia tập trung phát triển kinh tế
+ Mỹ đang ra sức thiết lập một trật tự thế giới “đơn cực” để làm bá chủ thế giới,nhưng không thực hiện được .
+ Sau “chiến tranh lạnh”, nhiều khu vực thế giới không ổn định, nội
chiến, xung đột quân sự kéo dài (Ban-căng, châu Phi, Trung Á).
- Sang thế kỷ XXI, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang diễn
ra thì vụ khủng bố 11.09.2001 ở nước Mỹ đã đặt các quốc gia, dân tộc
đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố với những nguy cơ khó
lường, gây ra những tác động to lớn, phức tạp với tình hình chính trị
thế giới và trong quan hệ quốc tế.
- Ngày nay, các quốc gia dân tộc vừa có những thời cơ phát triển
thuận lợi, đồng thời vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay
gắt.
Nhãn
- CHÂN DUNG NHÂN VẬT (13)
- CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC (37)
- ENGLISH LANGUAGE (10)
- GÓC CHIA SẺ (3)
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ - TIN HỌC (20)
- KINH TẾ THỊ TRƯỜNG (19)
- MUÔN MÀU CUỘC SỐNG (45)
- NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN (5)
- NƠI XẢ XÌ CHÉT (33)
- SỰ KIỆN QUỐC NGOẠI (26)
- SỰ KIỆN QUỐC NỘI (41)
- SỰ KIỆN THỂ THAO (13)
- TÀI LIỆU HỌC TẬP (4)
- THÔNG BÁO TỪ LỚP TRƯỞNG (41)
- THƯƠNG TRƯỜNG KỲ ẢO (6)
- TRẮNG ĐEN CUỘC ĐỜI (14)
- TÚC CẦU GIÁO (5)
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỰ KIỆN QUỐC NGOẠI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỰ KIỆN QUỐC NGOẠI. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013
Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013
Triều Tiên quyết ‘chơi bài ngửa’ với Trung Quốc: kêu gọi người dân chuẩn bị chiến tranh với Hàn Quốc
Thứ ba, 12/03/2013, 16:57 (GMT+7)
Tối 5-3, Đài truyền hình Triều Tiên đã đưa tin người phát ngôn của Ủy ban quốc phòng Triều Tiên tuyên bố hủy “Hiệp định đình chiến Triều Tiên” ký năm 1953, ném “quả bom” gây chấn động cả cộng đồng quốc tế.
Một điều đáng chú ý là việc Triều Tiên lựa chọn thời điểm thông báo thông tin này vào lúc 7 giờ tối, xét ở một mức độ nào đó là gây sức ép “đánh đòn phủ đầu” cho cuộc hội nghị bàn về vấn đề trừng phạt Triều Tiên khi nước này thử hạt nhân lần thứ ba do Hội đồng bảo an Liên hợp quốc tổ chức diễn ra vào ngày 7-3.
Hiệp định đình chiến Triều Tiên được ký kết hồi tháng 7-1953 tại làng Panmunjeom – giới tuyến phân cách Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên bởi ba bên Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Hợp Quốc đứng đầu là Mỹ sau khi chiến tranh Triều Tiên kéo dài 3 năm mà không đạt được kết quả gì.
Hiệp đình đình chiến này có 3 ý nghĩa: Một là hai bên tham gia chiến tranh Triều Tiên chính thức ngừng bắn và đưa ra những quy định cụ thể trong vấn đề ngừng bắn đối với hai bên; Hai là xây dựng vùng đệm quân sự Panmunjeom ngăn cách giữa hai miền Triều Tiên rộng khoảng 4 km.
Đây được coi là khu vực phi quân sự để hai bên Triều Tiên, Hàn Quốc né tránh lửa đạn; Ba là xác lập quãng thời gian có hiệu lực khi các điều khoản trong hiệp định chưa được chỉnh sửa và bổ sung theo sự đồng ý của hai bên, từ đó tạo ra một hiệp định đình chiến “vô thời hạn”.
Xét về bối cảnh tại thời điểm đó, hiệp định này liên quan trực tiếp với việc cả hai quốc gia là Triều Tiên và Hàn Quốc đều không thể thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng sức mạnh của mình, đồng thời hai nước đứng sau Triều Tiên và Hàn Quốc là Trung Quốc, Mỹ đã phải trả giá quá đắt khi bị kéo vào cuộc chiến tranh này.
Chính vì vậy, dựa vào việc ký kết Hiệp định đình chiến để giảm bớt những thiệt hại tiếp theo là phù hợp với lợi ích của 4 bên. Tuy nhiên, bản thân hiệp định này lại tồn tại khá nhiều lỗ hổng.
Thứ nhất, vấn đề chủ yếu mà hiệp định này giải quyết là sự đối đầu quân sự giữa Trung Quốc và Triều Tiên với quân đội Liên Hợp Quốc đứng đầu là Mỹ, chính vì thế khi kí kết, sự vắng mặt của Hàn Quốc đã gây ra nhiều tranh cãi khi thực hiện Hiệp định này.
Seoul đã nhiều lần lấy cớ không ký tên vào Hiệp định đình chiến và liên tục thể hiện lập trường cứng rắn với Triều Tiên, quốc gia này cũng tỏ ra rất tự do khi tham gia các cuộc tập trận quân sự với Mỹ, điều này đã khiến Bình Nhưỡng đưa ra kết luận rằng Hàn Quốc đã đi ngược lại tinh thần “đình chiến”, từ đó khiến hai bên mất đi niềm tin với nhau.
Thứ hai, hai bên ký hiệp định không thể trở tiếp tục trở thành người thực thi hiệp định. Mặc dù dư luận quốc tế luôn cho rằng Trung Quốc và Mỹ không ngừng quan tâm đến bán đảo Triều Tiên, nhưng một điều không thể phủ nhận là kể từ năm 1953, sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết, hai quốc gia này không thể hiện vai trò của người thực thi hay giám sát hiệp định một cách liên tục.
Một thời gian dài sau khi ký kết hiệp định, cả Trung Quốc và Mỹ đều không đặt bán đảo Triều Tiên vào vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược đối ngoại của mình.
Sau khi ổn định được phương Bắc, dần dần Trung Quốc tập trung cho hoạt động phát triển kinh tế trong nước, rồi sau đó tập trung vào vấn đề lãnh thổ và chủ quyền ở phía Nam. Còn Mỹ thì không ngừng mở rộng tầm nhìn chiến lược ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vượt xa bán đảo Triều Tiên.
Điều này khiến cho mỗi khi Hàn Quốc lấy cớ không ký tên và “kích nộ” Triều Tiên, đã thiếu hẳn một cơ chế giám sát ở vòng ngoài yêu cầu hai nước Triều Tiên và Hàn Quốc tuân thủ khung hiệp định đình chiến.
Thứ ba, Bình Nhưỡng biến hiệp định thành công cụ để thực hiện “sức mạnh mềm” của mình. Mặc dù 3 bên tham gia ký hiệp định, nhưng cả Trung Quốc và Mỹ đều không phải là người thực hiện hiệp định, Triều Tiên là bên duy nhất đóng vai trò chủ đạo trong hiệp định này.
Điều này đã khiến Bình Nhưỡng tìm được kẽ hở để duy trì sự cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ: vừa lấy danh nghĩa tình hữu nghị Triều Tiên – Trung Quốc và hiệp định cùng ký kết để tìm kiếm sự viện trợ từ phía Bắc Kinh, đồng thời lại dùng hiệp định để đe dọa Mỹ.
Triều Tiên tự kéo mình vào vùng lầy?
Tháng 5-2009, Triều Tiên lấy li do Hàn Quốc chính thức tham gia vào Sáng kiến An ninh chống phổ biến vũ khí (PSI) do Mỹ khởi xướng, đẩy cục diện bán đảo Triều Tiên vào “tình trạng chiến tranh”, tuyên bố sẽ không chấp nhận sự trói buộc của hiệp định đình chiến. Sau khi hiệp định này mất hiệu lực, bán đảo Triều Tiên sẽ quay trở lại với tình trạng chiến tranh như xưa, quân đội Triều Tiên sẽ áp dụng các chiến dịch quân sự tương ứng.
Nói cách khác, xét về lý, kể từ tháng 5-2009, Hiệp định đình chiến đã mất đi người thi hành thực sự. Nhưng một điều thú vị là, lúc đó Bình Nhưỡng đã khéo léo lấy danh nghĩa “không chấp nhận sự trói buộc” để tránh cho hiệp định mất toàn bộ hiệu lực.
Tuy nhiên, lần này việc Bình Nhưỡng tuyên bố không thừa nhận hiệp định đình chiến lại có bối cảnh hơi khác với năm 2009. Sau khi hoàn thành vụ thử hạt nhân lần thứ ba, hai nước Mỹ và Hàn Quốc đã thể hiện rõ lập trường cứng rắn với Hàn Quốc.
Ý định dùng hiệp định để “bắt chẹt” Mỹ và Hàn Quốc – quốc gia vốn không ký tên trên hiệp định của Triều Tiên dường như không có tác dụng lớn. Vậy việc lấy một hiệp định “hữu danh vô thực” ra để dọa nạt dường như là nhằm vào chính Trung Quốc.
Theo nguồn tin từ phía Mỹ, chính phủ nước này đã đạt được nhận thức chung rất với các bên bao gồm cả Trung Quốc về vấn đề trừng phạt Triều Tiên. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã công khai ủng hộ việc trừng phạt một cách thích đáng đáng này để thực hiện mục tiêu phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Động thái này rất ít khi xảy ra ở Trung Quốc – quốc gia nhiều năm qua vốn luôn âm thầm dung túng Triều Tiên “gây chuyện thị phi”.
Trung Quốc theo đuổi mục tiêu phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên cũng là yếu tố quan trọng để ngành công nghiệp phía Bắc Trung Quốc được an toàn. Huống hồ Trung Quốc lại luôn cho rằng mình là nước lớn cần có trách nhiệm với nền hòa bình của thế giới, thường xuyên phải “đỡ đạn” cho những hành vi bị Mỹ liệt vào “quốc gia khủng bố”.
Rõ ràng điều này không phù hợp với mục tiêu chiến lược quốc tế của Trung Quốc. Chính vì vậy, phản ứng của Trung Quốc trong vấn đề này cũng là điều dễ hiểu, và nó cũng phù hợp với lợi ích của Trung Quốc.
Tuy nhiên đối với Triều Tiên, e rằng quốc gia này sẽ phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn do Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, thậm chí cả Nhật Bản liên kết tạo nên, đây là cục diện mà hai cựu lãnh đạo Triều Tiên trước đây là Kim Nhật Thành và Kim Jong Il luôn nỗ lực né tránh.
Chính vì những lý do trên, trong thời điểm này việc Bình Nhưỡng tuyên bố không thừa nhận hiệp định đình chiến đã không còn có ý nghĩa. Hành động này không chỉ là việc chơi bài ngửa với Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, mà còn trực tiếp gây sức ép cho Trung Quốc bằng những hành động rầm rộ chuẩn bị nổ súng bất cứ lúc nào.
Với vai trò là “chốt an toàn” duy trì nền hòa bình và sự ổn định cho bán đảo Triều Tiên hơn nửa thế kỷ, nhưng hiệp định đình chiến ký kết năm 1953 sau khi bị Triều Tiên phá chốt hết lần này đến lần khác, cục diện bán đảo Triều Tiên vốn rất mong manh đang phải đối mặt với mối nguy hiểm mới.
Trong lúc các bên đều chưa thể dự đoán cái giá mà mình phải trả trong vòng đua tới, làm thế nào để duy trì hiện trạng, tránh cho khủng hoảng leo thang đã trở thành thước đo đánh giá trí tuệ và sự nhẫn nại của các bên.
Hãng tin Yonhap của Hàn Quốc hôm 15-3 đưa tin, CHDCND Triều Tiên đang tập hợp lực lượng, kêu gọi lòng yêu nước trong thời chiến tranh của đông đảo quần chúng nhân dân.
Rodong Sinmun, tờ báo chính thống của CHDCND Triều Tiên, kêu gọi “tinh thần bảo vệ tổ quốc như những năm 50” của người dân trong số báo phát hành hôm nay, 15-3.
Tờ báo viết: “Bây giờ, đất nước chúng ta gần như đang bước vào giai đoạn chiến tranh, tinh thần bảo vệ tổ quốc của những năm 1950 đã trở thành tài sản tình cảm vô giá và là nguồn động viên”.
Theo báo này, tinh thần của những năm 1950 có nghĩa sẵn sàng đổ máu
để “bảo vệ mỗi tấc đất của tổ quốc”. Tờ báo nói thêm, tinh thần yêu nước
mạnh mẽ này đã giúp đất nước bảo vệ mình, chống lại Hoa Kỳ trong cuộc
chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953.
“Với tinh thần đó, công dân hiện nay nên được trang bị lòng quết tâm, sự táo bạo để loại Mỹ ra khỏi thế giới”, tờ báo viết.
Một tờ báo khác cũng có bài viết tương tự vào tuần trước, kêu gọi nhân dân làm sống lại tinh thần yêu nước mạnh mẽ của mình.
Các nhà phân tích của Hàn Quốc cho rằng, động thái mới nhất này phản ánh nỗ lực của Triều Tiên trong việc đoàn kết người dân chống lại những chỉ trích và trừng phạt mà Liên Hợp Quốc áp dụng đối với Triều Tiên sau vụ thử hạt nhân lần ba.
Ông Kim Yong Hyun, giáo sư nghiên cứu Triều Tiên tại đại học Dongkuk (Hàn Quốc) cho biết: “Triều Tiên đang cố gắng khơi dậy quá khứ chiến tranh Triều Tiên nhằm tăng thêm sự tự tin trong cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ”.
Đối phó lại các biện pháp trừng phạt của Liên Hợp Quốc và các cuộc tập trận chung Mỹ – Hàn đang diễn ra, gần đây, CHDCND Triều Tiên liên tục đe dọa về cuộc chiến hạt nhân, làm tăng thêm căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên.
Theo các nhà phân tích, chìa khóa cho việc giải tỏa căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên đang nằm trong tay Mỹ và Triều Tiên.
Ngay sau khi nghị quyết mới về trừng phạt Triều Tiên của LHQ (7/3) được thông qua. Triều Tiên đã phản ứng quyết liệt bằng cách đe dọa sẽ khởi động một “cuộc tấn công hạt nhân phòng ngừa”, tuyên bố xóa bỏ Hiệp định đình chiến 1953 và thỏa thuận không gây hấn lẫn nhau năm 1991 với Hàn Quốc.
Hiện nay, cả hai bên đều tăng cường các hoạt động quân sự tại khu vực biên giới. Các nhà phân tích cho rằng, những động thái nêu trên của hai bên đã làm gia tăng căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên lên mức cao nhất so với nhiều năm trước đây.
“Cứng rắn” có cơ sở?
Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên (KCNA) ngày 13/3, dẫn tuyên bố của Bộ các Lực lượng vũ trang Triều Tiên khẳng định, Hiệp định đình chiến kết thúc cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1950-1953 và các thỏa thuận không gây hấn giữa hai miền hiện không còn giá trị nữa.
KCNA cho biết, Triều Tiên đã chọn Mỹ và quân đội Hàn Quốc làm mục
tiêu cho tất cả hành động của mình nhằm bảo vệ chủ quyền, đồng thời
Washington cùng Seoul sẽ là mục tiêu chính của hành động trả đũa quân sự
“không thương tiếc chống lại những kẻ thù của Triều Tiên”.
Các máy bay chiến đấu của Triều Tiên cũng ồ ạt xuất kích, lên tới 700 lần trong ngày 11/3, khi cuộc tập trận “Giải pháp then chốt” giữa Mỹ và Hàn Quốc diễn ra. Số lượng các chuyến bay xuất kích được cho là “lớn chưa từng thấy”, gấp 6 lần số lượng tối đa các chuyến bay trong đợt huấn luyện của quân đội Triều Tiên vào mùa hè năm ngoái.
Theo Thời báo New York Times, Triều Tiên đã bắt đầu sơ tán Chính phủ và người dân vào những đường hầm vốn được xây dựng sẵn sàng cho tình trạng khẩn cấp. Các nhà chức trách Hàn Quốc mô tả động thái này là nhằm chuẩn bị cho chiến tranh.
Ngày 9/3, Ken Gause, chuyên gia người Mỹ, Giám đốc Nhóm các vấn đề Quốc tế tại CNA – một tổ chức nghiên cứu liên quan đến quốc phòng ở Alexandria, bang Virginia, nhận xét rằng nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un dường như đang tìm kiếm một ván bài có lợi hơn với Mỹ so với trước đây vì tin rằng ông đã có nhiều hơn những gì để mặc cả với Mỹ.
Chuyên gia Gause nhận xét những lời đe dọa gần đây của Triều Tiên không được xem là “sự khoa trương bình thường”. “Nó phản ánh một chiến lược phát triển của Bình Nhưỡng để can dự với Mỹ trực tiếp hơn”.
Dưới thời cố lãnh đạo Kim Jong-Il, Triều Tiên đã từng đưa ra những lời đe dọa tương tự như hủy bỏ các thỏa thuận đình chiến và không xâm lược. Tuy nhiên, những lời đe dọa gần đây khác với trước. Vì “Quyết định hủy bỏ lần này dường như vô điều kiện hơn và không phải là những thủ đoạn về ngữ nghĩa”.
Căng thẳng xung quanh khu vực biên giới đã khiến nhiều người dân Hàn Quốc lo ngại. Một người dân bày tỏ: “Tôi không nghĩ rằng, phía Triều Tiên đe dọa. Những lời đe dọa có thể biển thành sự khiêu khích làm cho người dân chúng tôi rất lo lắng. Chúng tôi hy vọng chính phủ sẽ xây dụng một kênh đối thoại kịp thời với Triều Tiên nhằm giải tỏa mối lo lắng của chúng tôi”.
Trong mấy ngày gần đây tại Bình Nhưỡng đã xuất hiện các biểu ngữ chính trị mới. Trong đó, tấm biểu ngữ treo trên một tòa nhà chính phủ có nội dung: “Đã đến lúc cho cuộc chiến vĩ đại để thống nhất tổ quốc của chúng ta. Hãy hủy diệt toàn bộ kẻ thù của chúng ta”.
Muốn được công nhận là quốc gia hạt nhân
Mỹ và các đồng minh của Mỹ tập trung vào việc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, nhưng Bình Nhưỡng lại quan tâm nhiều hơn tới việc đàm phán về một chế độ hòa bình và mục tiêu là Triều Tiên được công nhận như một cường quốc hạt nhân.
Chuyên gia phân tích, ông Gause cho rằng: “nhà lãnh đạo Triều Tiên
không thể thoái lui từ chiến lược hiện tại vì như vậy, đặc biệt là trước
áp lực của thế giới, sẽ làm suy yếu tính hợp pháp và sự lãnh đạo của
mình. Bình Nhưỡng đang tiếp tục chuyền quả bóng sang sân Mỹ. Thật khó dự
đoán liệu một cuộc đụng độ vũ trang sẽ xảy ra sớm hay không, liệu tình
hình căng thẳng gia tăng trên bán đảo Triều Tiên có thể còn có nhiều cơ
hội cho những nỗ lực ngoại giao để tái khởi động các cuộc đàm phán hay
không”.
Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Triều Tiên còn nói nước này có thể sẽ thực hiện cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu chống lại kẻ thù trong trường hợp Bình Nhưỡng bị tấn công. “Vì Mỹ sắp châm ngòi một cuộc chiến hạt nhân, chúng tôi sẽ thực hiện quyền của mình bằng cách tiến hành cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu vào sào huyệt của những kẻ gây sự nhằm bảo vệ quyền lợi tối cao của chúng tôi”.
Các nhà phân tích cho rằng, trở thành quốc gia hạt nhân đã là mục tiêu bất di bất dịch của Triều Tiên nhằm khẳng định vị thế của mình với Hàn Quốc và khu vực Đông Bắc Á.
Muốn đàm phán trực tiếp với Mỹ
Chuyên gia Ken Gause còn cho biết chuyến đi của cựu ngôi sao bóng rổ NBA Dennis Rodman đến Triều Tiên hồi tuần trước cho biết nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un nói rằng: “ông muốn một cuộc gọi điện thoại từ Tổng thống Barack Obama”.
Ông Gause đề nghị: “Mỹ cần thăm dò các cách thức tham gia trong tương lai của Triều Tiên và nên bắt đầu với việc trở lại các cuộc gặp theo các kênh. Tôi nghĩ chuyến đi của Rodman thực sự rất thú vị và hữu ích”.
Một diễn biến khác, trong chuyến công du tới Trung Đông của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng bày tỏ hy vọng rằng nhà lãnh đạo Triều Tiên sẽ tham gia vào “các cuộc đối thoại, đàm phán hợp pháp”.
Cũng theo, ông Gause, một loạt ngôn từ mạnh mẽ đe dọa bằng quân sự của Triều Tiên trong lần này phản ánh những ý định táo bạo hơn của Kim Jong Un. Chẳng hạn như, đã đặt tên lửa đạn đạo liên lục địa mang đầu hạt nhân ở chế độ chờ trên bệ phóng…
Với việc cắt đứt “đường dây nóng” trực tiếp với Seoul của Bình Nhưỡng lần này có thể là sự “nhấn mạnh mức độ nghiêm trọng của lời đe dọa”. Hình như ông Kim Jong Un đang cố gắng chơi một “nước cờ” với Mỹ táo bạo hơn cha của mình.
Như vậy, với những động thái mới của Triều Tiên sau khi LHQ thông qua lệnh trừng phạt về vụ thử hạt nhân hồi tháng trước cho thấy: Triều Tiên đã có bước đột phá chiến lược để thoát khỏi vòng khương tỏa của Mỹ đối với họ, trên cơ sở tiềm lực hạt nhân được gia tăng trong mấy năm gần đây. Vì thế, các nhà phân tích cho rằng chìa khóa cho việc giải tỏa căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên hiện đang nằm trong tay của cả Mỹ và Triều Tiên./.
Ngày 11-3, tờ Liên hợp buổi sáng
(Singapore) đăng bài bình luận về sự kiện Triều Tiên hủy Hiệp định đình
chiến với tựa đề: Ván cược của Triều Tiên.
Nội dung bài viết như sau:Tối 5-3, Đài truyền hình Triều Tiên đã đưa tin người phát ngôn của Ủy ban quốc phòng Triều Tiên tuyên bố hủy “Hiệp định đình chiến Triều Tiên” ký năm 1953, ném “quả bom” gây chấn động cả cộng đồng quốc tế.
Một điều đáng chú ý là việc Triều Tiên lựa chọn thời điểm thông báo thông tin này vào lúc 7 giờ tối, xét ở một mức độ nào đó là gây sức ép “đánh đòn phủ đầu” cho cuộc hội nghị bàn về vấn đề trừng phạt Triều Tiên khi nước này thử hạt nhân lần thứ ba do Hội đồng bảo an Liên hợp quốc tổ chức diễn ra vào ngày 7-3.
Nhà lãnh đạo trẻ Kim Jong Un thị sát các đơn vị quân đội và tuyên bố Triều Tiên đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tổng lực.
Bình Nhưỡng có đạt được kết quả như mong muốn? Đây vẫn là một ẩn số, tuy
nhiên có thể khẳng định rằng, hành động này sẽ làm tăng thêm biến số
mới cho cục diện bán đảo Triều Tiên vốn đang rất căng thẳng, và Bình
Nhưỡng cũng bắt đầu đi vào con đường đánh cược bằng vận mệnh quốc gia.
Giá trị và lỗ hổng trong “Hiệp định đình chiến”Hiệp định đình chiến Triều Tiên được ký kết hồi tháng 7-1953 tại làng Panmunjeom – giới tuyến phân cách Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên bởi ba bên Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Hợp Quốc đứng đầu là Mỹ sau khi chiến tranh Triều Tiên kéo dài 3 năm mà không đạt được kết quả gì.
Hiệp đình đình chiến này có 3 ý nghĩa: Một là hai bên tham gia chiến tranh Triều Tiên chính thức ngừng bắn và đưa ra những quy định cụ thể trong vấn đề ngừng bắn đối với hai bên; Hai là xây dựng vùng đệm quân sự Panmunjeom ngăn cách giữa hai miền Triều Tiên rộng khoảng 4 km.
Đây được coi là khu vực phi quân sự để hai bên Triều Tiên, Hàn Quốc né tránh lửa đạn; Ba là xác lập quãng thời gian có hiệu lực khi các điều khoản trong hiệp định chưa được chỉnh sửa và bổ sung theo sự đồng ý của hai bên, từ đó tạo ra một hiệp định đình chiến “vô thời hạn”.
Xét về bối cảnh tại thời điểm đó, hiệp định này liên quan trực tiếp với việc cả hai quốc gia là Triều Tiên và Hàn Quốc đều không thể thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng sức mạnh của mình, đồng thời hai nước đứng sau Triều Tiên và Hàn Quốc là Trung Quốc, Mỹ đã phải trả giá quá đắt khi bị kéo vào cuộc chiến tranh này.
Chính vì vậy, dựa vào việc ký kết Hiệp định đình chiến để giảm bớt những thiệt hại tiếp theo là phù hợp với lợi ích của 4 bên. Tuy nhiên, bản thân hiệp định này lại tồn tại khá nhiều lỗ hổng.
Thứ nhất, vấn đề chủ yếu mà hiệp định này giải quyết là sự đối đầu quân sự giữa Trung Quốc và Triều Tiên với quân đội Liên Hợp Quốc đứng đầu là Mỹ, chính vì thế khi kí kết, sự vắng mặt của Hàn Quốc đã gây ra nhiều tranh cãi khi thực hiện Hiệp định này.
Seoul đã nhiều lần lấy cớ không ký tên vào Hiệp định đình chiến và liên tục thể hiện lập trường cứng rắn với Triều Tiên, quốc gia này cũng tỏ ra rất tự do khi tham gia các cuộc tập trận quân sự với Mỹ, điều này đã khiến Bình Nhưỡng đưa ra kết luận rằng Hàn Quốc đã đi ngược lại tinh thần “đình chiến”, từ đó khiến hai bên mất đi niềm tin với nhau.
Thứ hai, hai bên ký hiệp định không thể trở tiếp tục trở thành người thực thi hiệp định. Mặc dù dư luận quốc tế luôn cho rằng Trung Quốc và Mỹ không ngừng quan tâm đến bán đảo Triều Tiên, nhưng một điều không thể phủ nhận là kể từ năm 1953, sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết, hai quốc gia này không thể hiện vai trò của người thực thi hay giám sát hiệp định một cách liên tục.
Một thời gian dài sau khi ký kết hiệp định, cả Trung Quốc và Mỹ đều không đặt bán đảo Triều Tiên vào vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược đối ngoại của mình.
Sau khi ổn định được phương Bắc, dần dần Trung Quốc tập trung cho hoạt động phát triển kinh tế trong nước, rồi sau đó tập trung vào vấn đề lãnh thổ và chủ quyền ở phía Nam. Còn Mỹ thì không ngừng mở rộng tầm nhìn chiến lược ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vượt xa bán đảo Triều Tiên.
Điều này khiến cho mỗi khi Hàn Quốc lấy cớ không ký tên và “kích nộ” Triều Tiên, đã thiếu hẳn một cơ chế giám sát ở vòng ngoài yêu cầu hai nước Triều Tiên và Hàn Quốc tuân thủ khung hiệp định đình chiến.
Thứ ba, Bình Nhưỡng biến hiệp định thành công cụ để thực hiện “sức mạnh mềm” của mình. Mặc dù 3 bên tham gia ký hiệp định, nhưng cả Trung Quốc và Mỹ đều không phải là người thực hiện hiệp định, Triều Tiên là bên duy nhất đóng vai trò chủ đạo trong hiệp định này.
Điều này đã khiến Bình Nhưỡng tìm được kẽ hở để duy trì sự cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ: vừa lấy danh nghĩa tình hữu nghị Triều Tiên – Trung Quốc và hiệp định cùng ký kết để tìm kiếm sự viện trợ từ phía Bắc Kinh, đồng thời lại dùng hiệp định để đe dọa Mỹ.
Triều Tiên tự kéo mình vào vùng lầy?
Tháng 5-2009, Triều Tiên lấy li do Hàn Quốc chính thức tham gia vào Sáng kiến An ninh chống phổ biến vũ khí (PSI) do Mỹ khởi xướng, đẩy cục diện bán đảo Triều Tiên vào “tình trạng chiến tranh”, tuyên bố sẽ không chấp nhận sự trói buộc của hiệp định đình chiến. Sau khi hiệp định này mất hiệu lực, bán đảo Triều Tiên sẽ quay trở lại với tình trạng chiến tranh như xưa, quân đội Triều Tiên sẽ áp dụng các chiến dịch quân sự tương ứng.
Nói cách khác, xét về lý, kể từ tháng 5-2009, Hiệp định đình chiến đã mất đi người thi hành thực sự. Nhưng một điều thú vị là, lúc đó Bình Nhưỡng đã khéo léo lấy danh nghĩa “không chấp nhận sự trói buộc” để tránh cho hiệp định mất toàn bộ hiệu lực.
Tuy nhiên, lần này việc Bình Nhưỡng tuyên bố không thừa nhận hiệp định đình chiến lại có bối cảnh hơi khác với năm 2009. Sau khi hoàn thành vụ thử hạt nhân lần thứ ba, hai nước Mỹ và Hàn Quốc đã thể hiện rõ lập trường cứng rắn với Hàn Quốc.
Ý định dùng hiệp định để “bắt chẹt” Mỹ và Hàn Quốc – quốc gia vốn không ký tên trên hiệp định của Triều Tiên dường như không có tác dụng lớn. Vậy việc lấy một hiệp định “hữu danh vô thực” ra để dọa nạt dường như là nhằm vào chính Trung Quốc.
Theo nguồn tin từ phía Mỹ, chính phủ nước này đã đạt được nhận thức chung rất với các bên bao gồm cả Trung Quốc về vấn đề trừng phạt Triều Tiên. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã công khai ủng hộ việc trừng phạt một cách thích đáng đáng này để thực hiện mục tiêu phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Động thái này rất ít khi xảy ra ở Trung Quốc – quốc gia nhiều năm qua vốn luôn âm thầm dung túng Triều Tiên “gây chuyện thị phi”.
Trung Quốc theo đuổi mục tiêu phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên cũng là yếu tố quan trọng để ngành công nghiệp phía Bắc Trung Quốc được an toàn. Huống hồ Trung Quốc lại luôn cho rằng mình là nước lớn cần có trách nhiệm với nền hòa bình của thế giới, thường xuyên phải “đỡ đạn” cho những hành vi bị Mỹ liệt vào “quốc gia khủng bố”.
Rõ ràng điều này không phù hợp với mục tiêu chiến lược quốc tế của Trung Quốc. Chính vì vậy, phản ứng của Trung Quốc trong vấn đề này cũng là điều dễ hiểu, và nó cũng phù hợp với lợi ích của Trung Quốc.
Tuy nhiên đối với Triều Tiên, e rằng quốc gia này sẽ phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn do Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, thậm chí cả Nhật Bản liên kết tạo nên, đây là cục diện mà hai cựu lãnh đạo Triều Tiên trước đây là Kim Nhật Thành và Kim Jong Il luôn nỗ lực né tránh.
Chính vì những lý do trên, trong thời điểm này việc Bình Nhưỡng tuyên bố không thừa nhận hiệp định đình chiến đã không còn có ý nghĩa. Hành động này không chỉ là việc chơi bài ngửa với Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, mà còn trực tiếp gây sức ép cho Trung Quốc bằng những hành động rầm rộ chuẩn bị nổ súng bất cứ lúc nào.
Với vai trò là “chốt an toàn” duy trì nền hòa bình và sự ổn định cho bán đảo Triều Tiên hơn nửa thế kỷ, nhưng hiệp định đình chiến ký kết năm 1953 sau khi bị Triều Tiên phá chốt hết lần này đến lần khác, cục diện bán đảo Triều Tiên vốn rất mong manh đang phải đối mặt với mối nguy hiểm mới.
Trong lúc các bên đều chưa thể dự đoán cái giá mà mình phải trả trong vòng đua tới, làm thế nào để duy trì hiện trạng, tránh cho khủng hoảng leo thang đã trở thành thước đo đánh giá trí tuệ và sự nhẫn nại của các bên.
Hãng tin Yonhap của Hàn Quốc hôm 15-3 đưa tin, CHDCND Triều Tiên đang tập hợp lực lượng, kêu gọi lòng yêu nước trong thời chiến tranh của đông đảo quần chúng nhân dân.
Rodong Sinmun, tờ báo chính thống của CHDCND Triều Tiên, kêu gọi “tinh thần bảo vệ tổ quốc như những năm 50” của người dân trong số báo phát hành hôm nay, 15-3.
Tờ báo viết: “Bây giờ, đất nước chúng ta gần như đang bước vào giai đoạn chiến tranh, tinh thần bảo vệ tổ quốc của những năm 1950 đã trở thành tài sản tình cảm vô giá và là nguồn động viên”.
Triều Tiên kêu gọi người dân chuẩn bị chiến tranh
“Với tinh thần đó, công dân hiện nay nên được trang bị lòng quết tâm, sự táo bạo để loại Mỹ ra khỏi thế giới”, tờ báo viết.
Một tờ báo khác cũng có bài viết tương tự vào tuần trước, kêu gọi nhân dân làm sống lại tinh thần yêu nước mạnh mẽ của mình.
Các nhà phân tích của Hàn Quốc cho rằng, động thái mới nhất này phản ánh nỗ lực của Triều Tiên trong việc đoàn kết người dân chống lại những chỉ trích và trừng phạt mà Liên Hợp Quốc áp dụng đối với Triều Tiên sau vụ thử hạt nhân lần ba.
Ông Kim Yong Hyun, giáo sư nghiên cứu Triều Tiên tại đại học Dongkuk (Hàn Quốc) cho biết: “Triều Tiên đang cố gắng khơi dậy quá khứ chiến tranh Triều Tiên nhằm tăng thêm sự tự tin trong cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ”.
Đối phó lại các biện pháp trừng phạt của Liên Hợp Quốc và các cuộc tập trận chung Mỹ – Hàn đang diễn ra, gần đây, CHDCND Triều Tiên liên tục đe dọa về cuộc chiến hạt nhân, làm tăng thêm căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên.
Theo các nhà phân tích, chìa khóa cho việc giải tỏa căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên đang nằm trong tay Mỹ và Triều Tiên.
Ngay sau khi nghị quyết mới về trừng phạt Triều Tiên của LHQ (7/3) được thông qua. Triều Tiên đã phản ứng quyết liệt bằng cách đe dọa sẽ khởi động một “cuộc tấn công hạt nhân phòng ngừa”, tuyên bố xóa bỏ Hiệp định đình chiến 1953 và thỏa thuận không gây hấn lẫn nhau năm 1991 với Hàn Quốc.
Hiện nay, cả hai bên đều tăng cường các hoạt động quân sự tại khu vực biên giới. Các nhà phân tích cho rằng, những động thái nêu trên của hai bên đã làm gia tăng căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên lên mức cao nhất so với nhiều năm trước đây.
“Cứng rắn” có cơ sở?
Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên (KCNA) ngày 13/3, dẫn tuyên bố của Bộ các Lực lượng vũ trang Triều Tiên khẳng định, Hiệp định đình chiến kết thúc cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1950-1953 và các thỏa thuận không gây hấn giữa hai miền hiện không còn giá trị nữa.
Lãnh
tụ Triều Tiên Kim Jong-un đang nhìn về phía đảo Baengnyeong nằm ở phía
bắc Hàn Quốc, gần giới tuyến giữa 2 miền, trong chuyến thăm 1 đơn vị
phòng thủ ở đảo Wolnae của Triều Tiên
Các máy bay chiến đấu của Triều Tiên cũng ồ ạt xuất kích, lên tới 700 lần trong ngày 11/3, khi cuộc tập trận “Giải pháp then chốt” giữa Mỹ và Hàn Quốc diễn ra. Số lượng các chuyến bay xuất kích được cho là “lớn chưa từng thấy”, gấp 6 lần số lượng tối đa các chuyến bay trong đợt huấn luyện của quân đội Triều Tiên vào mùa hè năm ngoái.
Theo Thời báo New York Times, Triều Tiên đã bắt đầu sơ tán Chính phủ và người dân vào những đường hầm vốn được xây dựng sẵn sàng cho tình trạng khẩn cấp. Các nhà chức trách Hàn Quốc mô tả động thái này là nhằm chuẩn bị cho chiến tranh.
Ngày 9/3, Ken Gause, chuyên gia người Mỹ, Giám đốc Nhóm các vấn đề Quốc tế tại CNA – một tổ chức nghiên cứu liên quan đến quốc phòng ở Alexandria, bang Virginia, nhận xét rằng nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un dường như đang tìm kiếm một ván bài có lợi hơn với Mỹ so với trước đây vì tin rằng ông đã có nhiều hơn những gì để mặc cả với Mỹ.
Chuyên gia Gause nhận xét những lời đe dọa gần đây của Triều Tiên không được xem là “sự khoa trương bình thường”. “Nó phản ánh một chiến lược phát triển của Bình Nhưỡng để can dự với Mỹ trực tiếp hơn”.
Dưới thời cố lãnh đạo Kim Jong-Il, Triều Tiên đã từng đưa ra những lời đe dọa tương tự như hủy bỏ các thỏa thuận đình chiến và không xâm lược. Tuy nhiên, những lời đe dọa gần đây khác với trước. Vì “Quyết định hủy bỏ lần này dường như vô điều kiện hơn và không phải là những thủ đoạn về ngữ nghĩa”.
Căng thẳng xung quanh khu vực biên giới đã khiến nhiều người dân Hàn Quốc lo ngại. Một người dân bày tỏ: “Tôi không nghĩ rằng, phía Triều Tiên đe dọa. Những lời đe dọa có thể biển thành sự khiêu khích làm cho người dân chúng tôi rất lo lắng. Chúng tôi hy vọng chính phủ sẽ xây dụng một kênh đối thoại kịp thời với Triều Tiên nhằm giải tỏa mối lo lắng của chúng tôi”.
Trong mấy ngày gần đây tại Bình Nhưỡng đã xuất hiện các biểu ngữ chính trị mới. Trong đó, tấm biểu ngữ treo trên một tòa nhà chính phủ có nội dung: “Đã đến lúc cho cuộc chiến vĩ đại để thống nhất tổ quốc của chúng ta. Hãy hủy diệt toàn bộ kẻ thù của chúng ta”.
Muốn được công nhận là quốc gia hạt nhân
Mỹ và các đồng minh của Mỹ tập trung vào việc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, nhưng Bình Nhưỡng lại quan tâm nhiều hơn tới việc đàm phán về một chế độ hòa bình và mục tiêu là Triều Tiên được công nhận như một cường quốc hạt nhân.
Triều Tiên thử hạt nhân
Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Triều Tiên còn nói nước này có thể sẽ thực hiện cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu chống lại kẻ thù trong trường hợp Bình Nhưỡng bị tấn công. “Vì Mỹ sắp châm ngòi một cuộc chiến hạt nhân, chúng tôi sẽ thực hiện quyền của mình bằng cách tiến hành cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu vào sào huyệt của những kẻ gây sự nhằm bảo vệ quyền lợi tối cao của chúng tôi”.
Các nhà phân tích cho rằng, trở thành quốc gia hạt nhân đã là mục tiêu bất di bất dịch của Triều Tiên nhằm khẳng định vị thế của mình với Hàn Quốc và khu vực Đông Bắc Á.
Muốn đàm phán trực tiếp với Mỹ
Chuyên gia Ken Gause còn cho biết chuyến đi của cựu ngôi sao bóng rổ NBA Dennis Rodman đến Triều Tiên hồi tuần trước cho biết nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un nói rằng: “ông muốn một cuộc gọi điện thoại từ Tổng thống Barack Obama”.
Ông Gause đề nghị: “Mỹ cần thăm dò các cách thức tham gia trong tương lai của Triều Tiên và nên bắt đầu với việc trở lại các cuộc gặp theo các kênh. Tôi nghĩ chuyến đi của Rodman thực sự rất thú vị và hữu ích”.
Một diễn biến khác, trong chuyến công du tới Trung Đông của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng bày tỏ hy vọng rằng nhà lãnh đạo Triều Tiên sẽ tham gia vào “các cuộc đối thoại, đàm phán hợp pháp”.
Cũng theo, ông Gause, một loạt ngôn từ mạnh mẽ đe dọa bằng quân sự của Triều Tiên trong lần này phản ánh những ý định táo bạo hơn của Kim Jong Un. Chẳng hạn như, đã đặt tên lửa đạn đạo liên lục địa mang đầu hạt nhân ở chế độ chờ trên bệ phóng…
Với việc cắt đứt “đường dây nóng” trực tiếp với Seoul của Bình Nhưỡng lần này có thể là sự “nhấn mạnh mức độ nghiêm trọng của lời đe dọa”. Hình như ông Kim Jong Un đang cố gắng chơi một “nước cờ” với Mỹ táo bạo hơn cha của mình.
Như vậy, với những động thái mới của Triều Tiên sau khi LHQ thông qua lệnh trừng phạt về vụ thử hạt nhân hồi tháng trước cho thấy: Triều Tiên đã có bước đột phá chiến lược để thoát khỏi vòng khương tỏa của Mỹ đối với họ, trên cơ sở tiềm lực hạt nhân được gia tăng trong mấy năm gần đây. Vì thế, các nhà phân tích cho rằng chìa khóa cho việc giải tỏa căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên hiện đang nằm trong tay của cả Mỹ và Triều Tiên./.
Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013
Biển Đông: Ẩn ý sau việc Philippines kiện TQ
Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là
muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung
Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" yêu sách tại Biển Đông.
Buộc Trung Quốc làm rõ yêu sách 9 đoạn
Tháng 8/2011, ông có bài dự đoán khả năng Philippines khởi kiện Trung Quốc trong tranh chấp ở Biển Đông. So với thông báo mới đây của Ngoại trưởng Albert del Rosario về việc Philippines sẽ kiện Trung Quốc, ông thấy những đánh giá của mình thế nào?
Theo Tuyên bố khởi kiện của Philippines đăng trên mạng của Bộ Ngoại giao Philippines, Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (Công ước Luật Biển) sẽ thủ tục được Philippines viện dẫn để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Trong Tuyên bố của mình, Philippines cũng nêu rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như việc đòi hỏi Trung Quốc xác định vùng biển theo Công ước Luật Biển, cho rằng Trung Quốc vi phạm Công ước khi cản trở Philippines thực thi quyền hàng hải và tài nguyên trên vùng biển của mình hay việc cho rằng Trung Quốc đang tiến hành khai thác trái phép tài nguyên trong vùng biển của Philippines.
Tuy nhiên, có hai vấn đề chính trong nội dung khởi kiện của Philippines. Thứ nhất, Philippines cho rằng yêu sách về biển của Trung Quốc tại Biển Đông theo "đường chín đoạn" là trái với Công ước Luật Biển và vô giá trị.
Hai là, các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng chỉ đem lại cho Trung Quốc tối đa lãnh hải 12 hải lý do những vị trí này chỉ có thể được coi là "đá" (không phải "đảo" để được hưởng vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa) theo quy định tại Điều 121 của Công ước Luật Biển.
Có thể nói, các bài viết vào tháng 8/2011 đã dự đoán đúng về thủ tục khởi kiện và phần nào đúng về nội dung mà Philippines dự định kiện Trung Quốc trong tranh chấp tại Biển Đông.
Thực ra, việc Philippines sử dụng thủ tục Trọng tài theo Phụ lục VII là khá rõ do đây cơ chế "mặc định" để giải quyết bất đồng giữa các thành viên Công ước liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển trong trường hợp các bên tranh chấp không thỏa thuận được về thủ tục giải quyết tranh chấp.
Các biện pháp tư pháp khác như Tòa án công lý quốc tế hay Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp nếu có được sự đồng ý từ Trung Quốc.
Việc dự đoán Philippines kiện Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 cũng không khó và có thể suy luận một cách lôgic. Thủ tục Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển bị hạn chế bởi tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc, theo đó Tòa trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc phân định biển hay liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử. Như vậy, Philippines phải tìm cách "hóa giải" tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 và do đó đã lựa chọn kiện theo Điều 121 liên quan đến việc Trung Quốc có thể có được các vùng biển khác ngoài lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các vị trí Trung Quốc đang chiếm giữ tại Biển Đông hay không (tất nhiên là điều này còn phụ thuộc vào việc điều kiện là Trung Quốc thực sự có chủ quyền đối với các vị trí mà họ chiếm giữ - vấn đề này Philippines dường như tạm thời gác sang một bên).
Điều này cũng rất lôgic: nếu vùng biển mà Trung Quốc có thể có chỉ là 12 hải lý lãnh hải xung quanh các vị trí họ chiếm giữ thì sẽ không nảy sinh ra tranh chấp về phân định (trừ ở một vài khu vực chồng lấn nhỏ giữa lãnh hải xung quanh các vị trí tranh chấp và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển, trong đó có Philippines).
Trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines cũng nói rõ rằng họ không yêu cầu tòa tiến hành phân định biển ở Biển Đông (và cũng không yêu cầu có phân xử về chủ quyền đối với các vị trí tranh chấp).
Liên quan đến vấn đề yêu sách "đường chín đoạn", đây là một điểm khá thú vị trong Tuyên bố khởi kiện của Philippines. Vào thời điểm năm 2011, tuy có biết Philippines rất quan ngại về bản đồ "đường chín đoạn" của Trung Quốc nhưng tôi vẫn cho rằng Philippines sẽ gắn với vấn đề này với vấn đề Điều 121.
Tuyên bố khởi kiện của Philippines thì không nói rõ ràng như vậy mà coi "đường chín đoạn" thể hiện yêu sách về "chủ quyền" và "quyền chủ quyền" của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng Philippines cũng không nói rõ ràng thêm là "chủ quyền" và "quyền chủ quyền" mà Trung Quốc đòi hỏi trong "đường chín đoạn" là đối với cái gì và dựa trên cơ sở nào.
Mặt khác, ẩn trong nội dung của Tuyên bố khởi kiện đó Philippines coi là đường chín đoạn thể hiện yêu sách vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Trung Quốc do Trung Quốc có chủ quyền đối với các vị trí đảo, đá nằm trong đường này và vùng biển đó lớn hơn lãnh hải 12 hải lý (điểm này rõ hơn ở đoạn Philippines nói về vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi liên quan đến bãi Hoàng Nham - Scarborough). Nếu như vậy thì Philippines cũng gắn đường chín đoạn với việc giải thích và áp dụng Điều 121.
Việc Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" của yêu sách của mình ở Biển Đông- một điều mà dường như Philippines đã không làm được thông qua đàm phán ngoại giao. Họ quả thực rất khôn khéo.
Trung Quốc sẽ gặp bất lợi nếu không hợp tác
Khi nhận công hàm thông báo khởi kiện từ Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Theresa Lasaro, Đại sứ Trung Quốc tại Manila, bà Ma Keqing, đã khẳng định quan điểm của phía Trung Quốc là những tranh chấp tại Biển Đông cần phải được các bên liên quan giải quyết thông qua đàm phán. Một số nhà bình luận cũng cho rằng Trung Quốc sẽ "phớt lờ" động thái này của Philippines. Ông có dự đoán gì về phản ứng của Trung Quốc?
Việc Đại sứ Trung Quốc nêu quan điểm cho rằng tranh chấp với Philippines ở Biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán song phương là nhất quán với chủ trương của Trung Quốc từ trước đến nay trong các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ. Cũng chính vì vậy, phía Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines đưa tranh chấp tại Biển Đông ra giải quyết bằng biện pháp pháp lý, mà ở đây là thông qua trọng tài quốc tế.
Một số học giả, chủ yếu đánh giá vấn đề từ góc độ quan hệ quốc tế và chính trị quốc tế, cũng cho rằng không có nhiều khả năng tranh chấp được giải quyết bằng thủ tục trọng tài như Philippines mong muốn.
Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn các quy định về trình tự thủ tục liên quan đến việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển thì có thể dự đoán rằng, trừ khi Philippines tự mình rút lại đơn kiện, Trung Quốc sẽ tham gia vào tiến trình pháp lý này.
Phụ lục VII của Công ước Luật Biển đã trù định sẵn các thủ tục về việc thành lập Tòa trọng tài trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận về việc chỉ định trọng tài. Cụ thể đó là, sau khi nhận được thông báo khởi kiện, Trung Quốc sẽ phải chỉ định trọng tài viên của mình trong vòng 30 ngày và sẽ phải thỏa thuận với Philippines về ba thành viên còn lại của Tòa trọng tài trong vòng 60 ngày.
Nếu Trung Quốc không chỉ định trọng tài viên hoặc không đạt được thỏa thuận với Philippines về các trọng tài viên còn lại thì Philippines có thể đơn phương yêu cầu Chánh án Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ định các trọng tài viên này trong vòng hai tuần kể từ khi kết thúc các thời hạn trên. Với thủ tục như vậy, rõ ràng Trung Quốc sẽ gặp bất lợi nếu không hợp tác với Philippines.
Tôi nghĩ rằng nếu Philippines quyết tâm, Trung Quốc sẽ chỉ định trọng tài viên của mình trong Tòa trọng tài đồng thời bảo lưu việc Tòa trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa họ và Philippines. Theo cách này, Trung Quốc sẽ xây dựng lập luận để bác bỏ thẩm quyền của Tòa trọng tài khi vụ kiện được bắt đầu, cho rằng Tòa trọng tài không có thẩm quyền để thụ lý vụ việc.
Đây cũng là chiến lược phổ biến của các bên bị kiện. Trong thực tế Nhật Bản đã thành công với chiến lược này khi bị Úc và New Zealand kiện năm 1998 trước Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII liên quan đến việc bảo tồn và quản lý cá ngừ vây xanh. Tòa trọng tài trong phán quyết năm 2000 đã tuyên bố rằng mình không có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.
Ông Nguyễn Đăng Thắng (giảng viên khoa Luật, Học viện Ngoại giao) phân tích:
Rất khó có thể dự đoán kết quả của vụ việc khi còn thiếu thông tin. Một đánh giá đầy đủ hơn chỉ có thể được đưa ra khi có các bản biện hộ và lập luận của Philippines và đặc biệt là của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên cơ sở tuyên bố khởi kiện của Philippines có thể có một số nhận xét sau.
Trước hết có thể thấy rằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII hoàn toàn có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 của Công ước Luật Biển đối với các cấu tạo địa chất tại Biển Đông. Vấn đề này không liên quan đến việc phân định biển hay nói đúng hơn là nó nằm trước giai đoạn phân định. Chỉ khi xác định các cấu tạo địa chất ở Biển Đông có vùng biển không và vùng biển đó rộng bao nhiêu thì mới biết có vùng chồng lấn ở đâu và có cần phân định không.
Tuy nhiên, ở đây có vấn đề đáng lưu ý là trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines giới hạn việc giải thích và áp dụng điều khoản này ở một số vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng tại Biển Đông chứ mở rộng ra toàn bộ ra các cấu tạo địa chất mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông. Cụ thể, Phi-líp-pin nêu rõ là vụ kiện chỉ liên quan đến bãi Hoàng Nham, ba vị trí tại Trường Sa là Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập cùng các bãi ngầm là Vành Khăn, McKennan, Gaven và Xu-bi mà Philippines cho rằng nằm trên thềm lục địa của họ (tất nhiên Philippines cũng bảo lưu quyền bổ sung, sửa đổi nội dung kiện của mình).
Đây là điểm mạnh và cũng là điểm yếu trong đơn kiện của Philippines. Điểm mạnh đó là các số liệu về địa lý, địa chất liên quan đến các vị trí Trung Quốc chiếm đóng là tương đối rõ ràng và do đó sẽ dễ dàng hơn cho Tòa trọng tài trong việc giải thích và áp dụng Điều 121 đối với các vị trí này (Philippines cũng đã nêu khá cụ thể các thông tin này trong Tuyên bố khởi kiện của mình).
Tuy nhiên, điểm yếu đó là Trung Quốc hoàn toàn có thể lập luận rằng
yêu sách về chủ quyền của họ ở Biển Đông không chỉ giới hạn ở các vị trí
mà Trung Quốc đang chiếm đóng như Philippines nêu, mà mở rộng ra nhiều
vị trí khác, trong đó có cả các cấu tạo lớn hơn và nhô cao lên khỏi mặt
nước.
Chẳng hạn, Trung Quốc có thể nêu ngay yêu sách đối với đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines đã đưa dân ra cư trú và cho rằng vị trí đó đáp ứng tiêu chuẩn là một đảo (phù hợp cho con người đến ở hoặc có được một đời sống kinh tế riêng) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, sẽ có vùng chồng lấn giữa một bên là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo Thị Tứ tại Trường Sa mà Trung Quốc cũng yêu sách và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển của Philippines. Để xác định tiếp xem phạm vi vùng biển thuộc đảo Thị Tứ và vùng biển thuộc bờ biển của Philippines là thế nào sẽ đòi hỏi phải tiến hành một công việc giống như phân định - một điều mà Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp này, Philippines sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra đó là khẳng định Trung Quốc tối đa chỉ có thể có các vùng lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các cấu tạo địa chất ở Biển Đông để từ đó khẳng định Philippines có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với Công ước nằm bên ngoài các vùng lãnh hải này.
Tất nhiên, cũng có thể Philippines đã dự trù đến việc này và có chuẩn bị để chứng minh rằng ngay cả những vị trí mà Trung Quốc yêu sách nhưng không chiếm đóng cũng không phải là "đảo" mà chỉ là "đá" theo Điều 121 của Công ước Luật Biển và do đó cũng chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.
Một khả năng nữa có thể xảy ra đó là Trung Quốc sẽ chính thức tuyên bố rằng "đường chín đoạn" là thể hiện yêu sách về quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử của Trung Quốc về Biển Đông (từ trước đến giờ Trung Quốc vẫn "nói bóng gió" về điều này). Trên cơ sở tuyên bố đó, Trung Quốc sẽ lập luận rằng Tọa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến "đường chín đoạn" vì Trung Quốc đã có tuyên bố năm 2006 về các ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài theo Phụ lục VII, theo đó loại bỏ các tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử khỏi thẩm quyền xét xử của Tòa trọng tài.
Tuy nhiên, ở đây có một số điểm chưa rõ ràng trong quy định của Công ước về ngoại lệ này và sẽ cần Tòa trọng tài giải thích. Thứ nhất, không rõ rằng ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có yếu tố lịch sử, kể cả yêu sách về quyền lịch sử và vùng nước lịch sử, hay chỉ giới hạn ở những tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử theo đúng lời văn của Công ước.
Thứ hai, nếu ngoại lệ về tranh chấp có yếu tố lịch sử được hiểu theo nghĩa rộng thì cũng vẫn chưa rõ rằng liệu tranh chấp đó bao gồm cả tranh chấp về việc có tồn tại quyền lịch sử, vùng nước lịch sử hay không, hay chỉ giới hạn ở tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền lịch sử hay sử dụng một vùng nước lịch sử đã được xác lập và công nhận.
Nhưng có thể chắc chắn rằng Philippines đã dự trù về điều này và có chuẩn bị lập luận riêng của mình về vấn đề này theo hướng hạn chế ngoại lệ mà Trung Quốc đưa ra.
Với việc kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc,
Philippines đang theo đuổi chiến lược ba mũi nhọn nhằm đối phó với những
yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên biển Đông.
Ba mũi nhọn này là ngoại giao, chính trị và pháp lý. Philippines đưa ra bốn cáo buộc. Một là, “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là phi pháp xét theo luật pháp quốc tế. Hai là, Trung Quốc đã chiếm giữ và xây dựng cơ sở trên các bãi đá ngầm, bãi cạn, bãi cạn lúc chìm lúc nổi… trên biển Đông và gọi chúng một cách bất hợp pháp là “đảo”. Ba là, Trung Quốc đã can thiệp bất hợp pháp vào các hoạt động bảo vệ chủ quyền của Philippines trong vùng lãnh hải nước này. Bốn là, Philippines tìm kiếm một phán quyết trong luật pháp quốc tế về vấn đề mà Trung Quốc chưa đưa vào danh sách “không chấp nhận” của Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định đã vận dụng mọi giải pháp chính trị và ngoại giao để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc một cách hòa bình nhưng bất thành. Nếu Philippines không hành động, cộng đồng quốc tế sẽ cho rằng Manila ngầm chấp thuận việc Trung Quốc “thực hiện chủ quyền” trên vùng biển Philippines bằng các tàu hải giám. Trên thực tế, Trung Quốc đã thôn tính bãi cạn Scarborough bằng việc triển khai tàu chiến, tàu tuần tra tại khu vực này, thậm chí còn lập rào chắn. Ngư dân Trung Quốc cứ tiếp tục đánh bắt cá trái phép trên vùng biển của Philippines.
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) đưa ra bốn cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ: Tòa án luật biển quốc tế (ITLOS), Tòa án công lý quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài và Tòa án trọng tài đặc biệt. Philippines đã tuân thủ mọi quy trình của UNCLOS. Các nước khi ký kết UNCLOS là đã chấp nhận việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Đầu tiên các nước phải giải quyết tranh chấp song phương. Nếu không đạt được thỏa thuận, một quốc gia có quyền đưa vụ việc ra tòa quốc tế theo UNCLOS. Quốc gia này có quyền chọn ITLOS hoặc Tòa án trọng tài.
Philippines đã chọn Tòa án trọng tài. Ban đầu Tòa án trọng tài sẽ xác định cơ quan này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Có nghĩa là tòa án sẽ xác định lập luận của Philippines có bao gồm việc diễn giải hoặc áp dụng UNCLOS hay không. Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu một địa điểm tranh chấp là đảo, bãi cạn hay bãi đá ngầm. Quan trọng hơn, Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu Trung Quốc có can thiệp bất hợp pháp vào chủ quyền lãnh thổ của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines hay không.

Tháng 8-2006, Trung Quốc tuyên bố không chấp nhận quy trình giải
quyết tranh chấp bắt buộc dựa trên bốn cơ chế trên trong các vấn đề về
phân định vùng lãnh hải, EEZ và thềm lục địa. Philippines khẳng định vụ
việc này liên quan đến các vấn đề ngoài vùng lãnh hải, EEZ hay thềm lục
địa. Vụ việc của Philippines cũng bao gồm việc diễn giải luật quốc tế
theo UNCLOS. Do đó, Tòa án trọng tài có thể sẽ ra phán quyết ủng hộ
Philippines. Nhiều khả năng phán quyết này sẽ tái xác nhận đường bờ
biển, vùng lãnh hải và EEZ của Philippines dựa trên luật pháp quốc tế.
Đó sẽ là một đòn mạnh giáng vào yêu sách “đường lưỡi bò” bất hợp pháp
của Trung Quốc.
Chính quyền Philippines đã lựa chọn một cách cẩn thận những khía cạnh pháp lý đặc thù trong tranh chấp với Trung Quốc để đưa ra tòa án Liên Hiệp Quốc. Bất kỳ một phán quyết nào của Tòa án trọng tài phủ nhận “đường lưỡi bò” của Trung Quốc cũng đều có lợi cho các quốc gia khác có đòi hỏi chủ quyền trên biển Đông. Các nước như Việt Nam hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm và tiền lệ của Philippines.
Thúc đẩy quốc tế hóa tranh chấp biển Đông
Hành động chính trị – pháp lý của Philippines sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình “quốc tế hóa” tranh chấp biển Đông. Nó cũng có thể dẫn tới phản ứng dây chuyền tại các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại biển Đông. Có thể các quốc gia này sẽ theo gương Manila đưa tranh chấp với Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế.
Lường định những rủi ro có thể có, các nhà hoạch định chính sách ở Manila không hề hành động một cách bất cẩn. Trong nhiều tháng qua, dưới sự chủ trì của Ngoại trưởng Albert del Rosario, các học giả và luật sư Philippines và quốc tế đã hình thành một chiến lược pháp lý. Sự khôn khéo của Manila là việc chọn một khía cạnh pháp lý – chính trị liên quan “đường lưỡi bò” mà dư luận quốc tế đều thừa nhận là phi lý. Một khi “đường lưỡi bò” bị bác bỏ về mặt pháp lý và công lý quốc tế, lợi ích của Philippines tại bãi cạn Scarborough cũng sẽ được bảo vệ. Ở mức độ, vụ kiện này sẽ góp phần vào cuộc đấu tranh chung về pháp lý, chính trị, ngoại giao để tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp trên biển Đông. “Cách tiếp cận luật pháp quốc tế” luôn là một sự lựa chọn có giá trị, một lá bài chiến lược để ngỏ.
Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.
Không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc Ông Nguyễn Đăng Thắng (giảng viên khoa Luật, Học viện Ngoại giao) phân tích:
Rất khó có thể dự đoán kết quả của vụ việc khi còn thiếu thông tin. Một đánh giá đầy đủ hơn chỉ có thể được đưa ra khi có các bản biện hộ và lập luận của Philippines và đặc biệt là của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên cơ sở tuyên bố khởi kiện của Philippines có thể có một số nhận xét sau.
Trước hết có thể thấy rằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII hoàn toàn có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 của Công ước Luật Biển đối với các cấu tạo địa chất tại Biển Đông. Vấn đề này không liên quan đến việc phân định biển hay nói đúng hơn là nó nằm trước giai đoạn phân định. Chỉ khi xác định các cấu tạo địa chất ở Biển Đông có vùng biển không và vùng biển đó rộng bao nhiêu thì mới biết có vùng chồng lấn ở đâu và có cần phân định không.
Tuy nhiên, ở đây có vấn đề đáng lưu ý là trong Tuyên bố khởi kiện của
mình, Philippines giới hạn việc giải thích và áp dụng điều khoản này ở
một số vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng tại Biển Đông chứ mở rộng ra
toàn bộ ra các cấu tạo địa chất mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông. Cụ
thể, Phi-líp-pin nêu rõ là vụ kiện chỉ liên quan đến bãi Hoàng Nham, ba
vị trí tại Trường Sa là Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập cùng các bãi ngầm
là Vành Khăn, McKennan, Gaven và Xu-bi mà Philippines cho rằng nằm trên
thềm lục địa của họ (tất nhiên Philippines cũng bảo lưu quyền bổ sung,
sửa đổi nội dung kiện của mình).
Đây là điểm mạnh và cũng là điểm yếu trong đơn kiện của Philippines. Điểm mạnh đó là các số liệu về địa lý, địa chất liên quan đến các vị trí Trung Quốc chiếm đóng là tương đối rõ ràng và do đó sẽ dễ dàng hơn cho Tòa trọng tài trong việc giải thích và áp dụng Điều 121 đối với các vị trí này (Philippines cũng đã nêu khá cụ thể các thông tin này trong Tuyên bố khởi kiện của mình).
Tuy nhiên, điểm yếu đó là Trung Quốc hoàn toàn có thể lập luận rằng yêu sách về chủ quyền của họ ở Biển Đông không chỉ giới hạn ở các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng như Philippines nêu, mà mở rộng ra nhiều vị trí khác, trong đó có cả các cấu tạo lớn hơn và nhô cao lên khỏi mặt nước.
Chẳng hạn, Trung Quốc có thể nêu ngay yêu sách đối với đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines đã đưa dân ra cư trú và cho rằng vị trí đó đáp ứng tiêu chuẩn là một đảo (phù hợp cho con người đến ở hoặc có được một đời sống kinh tế riêng) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, sẽ có vùng chồng lấn giữa một bên là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo Thị Tứ tại Trường Sa mà Trung Quốc cũng yêu sách và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển của Philippines. Để xác định tiếp xem phạm vi vùng biển thuộc đảo Thị Tứ và vùng biển thuộc bờ biển của Philippines là thế nào sẽ đòi hỏi phải tiến hành một công việc giống như phân định – một điều mà Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp này, Philippines sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra đó là khẳng định Trung Quốc tối đa chỉ có thể có các vùng lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các cấu tạo địa chất ở Biển Đông để từ đó khẳng định Philippines có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với Công ước nằm bên ngoài các vùng lãnh hải này.
Tất nhiên, cũng có thể Philippines đã dự trù đến việc này và có chuẩn bị để chứng minh rằng ngay cả những vị trí mà Trung Quốc yêu sách nhưng không chiếm đóng cũng không phải là “đảo” mà chỉ là “đá” theo Điều 121 của Công ước Luật Biển và do đó cũng chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.
Một khả năng nữa có thể xảy ra đó là Trung Quốc sẽ chính thức tuyên
bố rằng “đường chín đoạn” là thể hiện yêu sách về quyền lịch sử hay vùng
nước lịch sử của Trung Quốc về Biển Đông (từ trước đến giờ Trung Quốc
vẫn “nói bóng gió” về điều này). Trên cơ sở tuyên bố đó, Trung Quốc sẽ
lập luận rằng Tọa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển
không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến “đường chín
đoạn” vì Trung Quốc đã có tuyên bố năm 2006 về các ngoại lệ đối với thẩm
quyền của Tòa trọng tài theo Phụ lục VII, theo đó loại bỏ các tranh
chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử khỏi thẩm quyền
xét xử của Tòa trọng tài.
Tuy nhiên, ở đây có một số điểm chưa rõ ràng trong quy định của Công ước về ngoại lệ này và sẽ cần Tòa trọng tài giải thích. Thứ nhất, không rõ rằng ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có yếu tố lịch sử, kể cả yêu sách về quyền lịch sử và vùng nước lịch sử, hay chỉ giới hạn ở những tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử theo đúng lời văn của Công ước.
Thứ hai, nếu ngoại lệ về tranh chấp có yếu tố lịch sử được hiểu theo nghĩa rộng thì cũng vẫn chưa rõ rằng liệu tranh chấp đó bao gồm cả tranh chấp về việc có tồn tại quyền lịch sử, vùng nước lịch sử hay không, hay chỉ giới hạn ở tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền lịch sử hay sử dụng một vùng nước lịch sử đã được xác lập và công nhận.
Nhưng có thể chắc chắn rằng Philippines đã dự trù về điều này và có chuẩn bị lập luận riêng của mình về vấn đề này theo hướng hạn chế ngoại lệ mà Trung Quốc đưa ra.
Với việc kiện Trung Quốc, Philippines thách thức tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Fu Yuing trước Ngoại trưởng del Rosario rằng không được quốc tế hóa tranh chấp giữa họ, bằng cách 1. đưa vấn đề ra Liên hợp quốc và 2. đưa vấn đề ra với các bên thứ ba, bao gồm các đồng minh của Philippines (như Mỹ) và 3. không tiến hành cuộc họp báo công khai.
Nói cách khác, Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.
Châu Á thế kỷ 21 hoàn toàn có thể xảy ra những biến cố giống như vụ ám sát hoàng tử Áo Ferdinand, sự kiện châm ngòi cho Đại chiến thế giới thứ nhất. Căng thẳng gia tăng trong các tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông và Hoa Đông đe dọa phá vỡ Thế kỷ được dự báo là của châu Á này. Chưa rõ kết quả sẽ ra sao, nhưng ở đây rõ ràng không chỉ tồn tại những chủ nghĩa dân tộc đang đấu tranh với nhau, những vết sẹo còn hằn sâu trong ký ức mỗi quốc gia và sự trỗi dậy của một Trung Quốc ngày càng hung hăng đằng sau những xung đột lợi ích.
Với nhiều người, tất cả là vì dầu mỏ: quan điểm được nhiều người chia sẻ là dưới các vùng biển tranh chấp này chứa đựng một kho báu dầu khí có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng của tất cả các nền kinh tế châu Á năng động.
Thế nhưng thật trớ trêu khi vẫn chưa hề có một cơ sở nào khẳng định suy nghĩ phổ biến này. Trên thực tế, người chiến thắng trong các tranh chấp Biển Đông và Hoa Đông cũng khó có khả năng kiếm được nhiều năng lượng đủ để tạo sự khác biệt đáng kể cho nhu cầu năng lượng ngày một lớn của mình. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp của Trung Quốc. Trong bất kỳ tình huống nào, việc khai thác nguồn tài nguyên nào đang tồn tại sẽ đòi hỏi sự chắc chắn và ổn định cao về pháp lý cũng như chính trị.
Căng thẳng trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ lên xuống như thủy triều
những năm gần đây. Kể từ năm 1974, khi Trung Quốc xâm lược quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam, khiến 18 chiến sĩ hải quân Việt Nam hy sinh trong
cuộc giao đấu, đã xảy ra hơn 20 cuộc đụng độ quân sự trên Biển Đông. Đa
số các vụ việc xảy ra trong những năm 1990, sau đó là giai đoạn tương
đối trầm lắng cho tới gần đây. Mặc dù Trung Quốc đã ký và thông qua Điều
ước Luật Biển (LOS), sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc lại dựa trên
căn cứ đi ngược lại với điều ước này. "Đường chín đoạn" của họ bao gồm
hơn 80% Biển Đông, đi quá xa so với phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200
hỉ lý được Điều ước công nhận.
Một nhân tố mới có thể làm gia tăng rủi ro trong tranh chấp là những tiến bộ không ngừng của công nghệ khoan biển sâu. Cho tới những năm 1990, gần như không có giàn khoan dầu khí ngoài khơi nào có thể hoạt động tại các mỏ sâu hơn 304m. Trong 2 thập niên trở lại đây, nguồn dầu tăng trên khắp thế giới có được nhờ công nghệ khoan "siêu sâu" - với độ sâu tới 1.500m. Cho đến gần đây, công nghệ này vẫn chỉ giới hạn chủ yếu trong các công ty năng lượng đa quốc gia lớn của phương Tây. Sau đó, tháng 5 năm ngoái, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) tuyên bố phát triển thành công giàn khoan dầu nước sâu với chi phí chỉ xấp xỉ 1 tỷ USD, có khả năng hút dầu ở độ sâu 12.000m.
Đến nay, vẫn chưa có khảo sát chính thức nào về tiềm năng dầu khí tại Biển Đông hay Hoa Đông. Ước tính của Trung Quốc về trữ lượng dầu khí ở cả hai khu vực tranh chấp xem ra quá phóng đại so với số liệu của các công ty năng lượng đa quốc gia lớn và nhiều nhà phân tích khác. Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu ở biển Hoa Đông là 160 tỷ thùng, gần gấp đôi con số ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ.
Về trữ lượng Biển Đông - theo đa số các chuyên gia, khoảng 70% là khí gas - Trung Quốc cũng khẳng định con số cao hơn nhiều. CNOOC ước tính có khoảng 213 tỷ thùng dầu - gần bằng quy mô trữ lượng đã kiểm chứng của Ả-rập Xê-út. Con số này cao gần gấp 12 lần ước tính của Cơ quan Địa chất Mỹ, và hãng tư vấn năng lượng Wood-Mackenzie nhận định có tổng cộng 2,5 tỷ thùng quy dầu khí đã kiểm chứng ở các đảo và bãi ngầm thuộc Biển Đông - tức là thấp hơn gần 100 lần so với khẳng định của Trung Quốc!
Ngoại trừ Trung Quốc và các doanh nghiệp nước này đã thực hiện các dự án khai thác chung với các công ty nước ngoài, nhiều quốc gia Đông Á đang tìm cách khai thác nguồn tài nguyên tại các đảo và bãi đá tranh chấp cũng cần hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, nhiều bên tranh chấp trong ASEAN tại Biển Đông đã ký các hợp đồng thăm dò dầu với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, rủi ro chính trị và thiếu pháp lý vững chắc tại các lãnh thổ tranh chấp khiến họ khó nhận được những khoản đầu tư quy mô lớn.
Theo tác giả, hợp lý nhất vẫn sẽ là chính sách mà Trung Quốc đã theo đuổi cho tới gần đây, như sáng kiến của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, "gác tranh chấp, cùng khai thác". Tuy nhiên, trước thực tế quá trình ra quyết sách thiếu rõ ràng của Trung Quốc, không khó để đưa ra nhận định rằng sự kết hợp giữa tham vọng hải quân, chính sách tài nguyên mang màu sắc chủ nghĩa trọng thương, và niềm tin quá lớn vào nguồn năng lượng và năng lực công nghệ dầu khí mới có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc từ bỏ đường lối chính sách trên của Đặng Tiểu Bình.
Điều mỉa mai là, Đặng Tiểu Bình đã nói đúng. Rất khó có thể tìm ra
phương thức giải quyết tranh chấp: Làm sao các quốc gia có thể nhượng bộ
danh dự quốc gia và bỏ qua các ký ức lịch sử? Và cũng rất khó xây dựng
một sự ổn định pháp lý và chính trị để giảm thiểu rủi ro, cho phép các
công ty năng lượng toàn cầu tiến hành những khoản đầu tư trị giá nhiều
tỷ USD. Đa số các hợp đồng thăm dò khai thác được ký với các công ty
năng lượng nhỏ.
Trên thế giới và trong khu vực cũng có nhiều tiền lệ khai thác tài nguyên chung. Các nước Bắc cực đã ký một thỏa thuận khai thác chung. Ở Đông Á, Thái Lan và Malaysia cũng có một hiệp định khai thác dầu khí chung và hiệp ước tương tự cũng tồn tại giữa Đông Timor và Australia.
Chưa hết, Trung Quốc và Nhật Bản cũng từng đạt được thỏa thuận khai thác dầu khí chung trong khu vực xung quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku hoang đang tranh chấp vào năm 2008. Bắc Kinh và Tokyo thống nhất cùng khai thác 4 mỏ khí tại Hoa Đông và gác lại hoạt động khai thác tại các khu vực tranh chấp khác. Hai bên đồng ý tiến hành khảo sát chung, và đầu tư ngang nhau vào khu vực phía bắc mỏ khí Chunxiao/Shirakaba và phía nam mỏ khí Longjing/Asunaro. Tuy nhiên, Trung Quốc đã bắt đầu đơn phương khai thác mỏ khí Tianwaitian/Kashi, dẫn đến cuộc biểu tình phản đối tại Nhật Bản vào tháng 1/2009. Hành động gây tranh cãi đó, cùng với cuộc đụng độ năm 2010 giữa tàu cá Trung Quốc với tàu cảnh sát biển Nhật Bản đã làm trì hoãn việc thự thi hiệp định.
Tại Đông Á đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc các chính phủ mới sau khi lên nắm quyền tại Tokyo, Seoul và Bắc Kinh sẽ ảnh hưởng ra sao đến các tranh chấp lãnh thổ. Chỉ riêng việc gia tăng hoạt động của các tàu tuần tra tại khu vực tranh chấp cùng với các cuộc tuần tra trên không đủ báo hiệu năm 2013 có thể sẽ chứng kiến ít nhất một vài cuộc đụng độ hải quân. Trong một tín hiệu tích cực hơn, Thủ tướng Nhật Bản Shintaro Abe, một lãnh đạo theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hăng hái, đã nhanh chóng cử phái viên cấp cao tới Seoul, nơi đang có tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản, để trấn an chính phủ mới của bà Park Geun-hye và cố gắng nối lại quan hệ hữu nghị.
Quan hệ Trung-Nhật đang đặc biệt căng thẳng khi Trung Quốc cử các tàu của cơ quan an ninh biển đi tuần tễu hằng ngày quanh Senkaku và một số nhân vật tại Nhật Bản đe dọa cử Lực lượng phòng vệ trên không bắn cảnh báo. Như khi giữ chức vụ thủ tướng năm 2006, ông Abe đã tiến hành nỗ lực đặc biệt để xoa dịu quan ngại của Trung Quốc khi lên cầm quyền. Lấy kinh tế làm ưu tiên và cuộc bầu cử Thượng viện diễn ra trong tháng 7, ông Abe được chờ đợi sẽ hạn chế đối đầu - ít nhất trong ngắn hạn. Nhưng trước sự phẫn nộ của người dân với những hành vi khiêu khích từ Trung Quốc, ông Abe và nội các đang "say đắm" chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ càng khấy động tình hình.
Mỹ đã kêu gọi cả hai bên kiềm chế căng thẳng và một phái đoàn quan chức an ninh và ngoại giao cấp cao đã được cử sang để cố vấn cho các đồng minh Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cuối cùng, một loạt các tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại châu Á chắc chắn sẽ không mang đến vận may năng lượng cho bất kỳ ai. Trừ khi khu vực có thể tìm ra lối đi giải quyết hay ít nhất là quản lý khát vọng dân tộc chủ nghĩa đang thúc đẩy điều lẽ ra chỉ là những cuộc tranh chấp nhỏ đối với một số đảo và bãi ngầm hoang, nếu không, Thế kỷ châu Á cũng sẽ sớm chấm dứt mà thôi.
Trâm Anh theo Robert A. Manning/ Yale Global
Tác giả Robert A. Manning nguyên là cố vấn cấp cao (2001-2004) và thành viên Tổ hoạch định chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ từ năm 2004-2008. Hiện ông đang là thành viên cấp cao của Trung tâm An ninh quốc tế Brent Scowcroft của Hội đồng Thái Bình Dương.
Liên quan đến việc ngày 22
tháng 01 năm 2013, Philippines tuyên bố khởi kiện Trung Quốc trong tranh
chấp ở Biển Đông, phóng viên Tuần Việt Nam đã có buổi trao đổi với anh
Nguyễn Đăng Thắng, Giảng viên Khoa Luật quốc tế của Học viện Ngoại giao,
người đã có hai bài phân tích về khả năng Philippines kiện Trung Quốc
(trên Tuần Việt Nam và trang Nghiên cứu Biển Đông). Mời bạn đọc cùng theo dõi:
Buộc Trung Quốc làm rõ yêu sách 9 đoạn
Tháng 8/2011, ông có bài dự đoán khả năng Philippines khởi kiện Trung Quốc trong tranh chấp ở Biển Đông. So với thông báo mới đây của Ngoại trưởng Albert del Rosario về việc Philippines sẽ kiện Trung Quốc, ông thấy những đánh giá của mình thế nào?
Theo Tuyên bố khởi kiện của Philippines đăng trên mạng của Bộ Ngoại giao Philippines, Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (Công ước Luật Biển) sẽ thủ tục được Philippines viện dẫn để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Trong Tuyên bố của mình, Philippines cũng nêu rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như việc đòi hỏi Trung Quốc xác định vùng biển theo Công ước Luật Biển, cho rằng Trung Quốc vi phạm Công ước khi cản trở Philippines thực thi quyền hàng hải và tài nguyên trên vùng biển của mình hay việc cho rằng Trung Quốc đang tiến hành khai thác trái phép tài nguyên trong vùng biển của Philippines.
Tuy nhiên, có hai vấn đề chính trong nội dung khởi kiện của Philippines. Thứ nhất, Philippines cho rằng yêu sách về biển của Trung Quốc tại Biển Đông theo "đường chín đoạn" là trái với Công ước Luật Biển và vô giá trị.
Hai là, các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng chỉ đem lại cho Trung Quốc tối đa lãnh hải 12 hải lý do những vị trí này chỉ có thể được coi là "đá" (không phải "đảo" để được hưởng vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa) theo quy định tại Điều 121 của Công ước Luật Biển.
Có thể nói, các bài viết vào tháng 8/2011 đã dự đoán đúng về thủ tục khởi kiện và phần nào đúng về nội dung mà Philippines dự định kiện Trung Quốc trong tranh chấp tại Biển Đông.
Thực ra, việc Philippines sử dụng thủ tục Trọng tài theo Phụ lục VII là khá rõ do đây cơ chế "mặc định" để giải quyết bất đồng giữa các thành viên Công ước liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển trong trường hợp các bên tranh chấp không thỏa thuận được về thủ tục giải quyết tranh chấp.
Các biện pháp tư pháp khác như Tòa án công lý quốc tế hay Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp nếu có được sự đồng ý từ Trung Quốc.
Trừ khi Philippines tự mình rút lại đơn kiện, Trung Quốc sẽ tham gia vào tiến trình pháp lý này. Ảnh minh họa: Minh Thăng |
Việc dự đoán Philippines kiện Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 cũng không khó và có thể suy luận một cách lôgic. Thủ tục Trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển bị hạn chế bởi tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc, theo đó Tòa trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc phân định biển hay liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử. Như vậy, Philippines phải tìm cách "hóa giải" tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 và do đó đã lựa chọn kiện theo Điều 121 liên quan đến việc Trung Quốc có thể có được các vùng biển khác ngoài lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các vị trí Trung Quốc đang chiếm giữ tại Biển Đông hay không (tất nhiên là điều này còn phụ thuộc vào việc điều kiện là Trung Quốc thực sự có chủ quyền đối với các vị trí mà họ chiếm giữ - vấn đề này Philippines dường như tạm thời gác sang một bên).
Điều này cũng rất lôgic: nếu vùng biển mà Trung Quốc có thể có chỉ là 12 hải lý lãnh hải xung quanh các vị trí họ chiếm giữ thì sẽ không nảy sinh ra tranh chấp về phân định (trừ ở một vài khu vực chồng lấn nhỏ giữa lãnh hải xung quanh các vị trí tranh chấp và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển, trong đó có Philippines).
Trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines cũng nói rõ rằng họ không yêu cầu tòa tiến hành phân định biển ở Biển Đông (và cũng không yêu cầu có phân xử về chủ quyền đối với các vị trí tranh chấp).
Liên quan đến vấn đề yêu sách "đường chín đoạn", đây là một điểm khá thú vị trong Tuyên bố khởi kiện của Philippines. Vào thời điểm năm 2011, tuy có biết Philippines rất quan ngại về bản đồ "đường chín đoạn" của Trung Quốc nhưng tôi vẫn cho rằng Philippines sẽ gắn với vấn đề này với vấn đề Điều 121.
Tuyên bố khởi kiện của Philippines thì không nói rõ ràng như vậy mà coi "đường chín đoạn" thể hiện yêu sách về "chủ quyền" và "quyền chủ quyền" của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng Philippines cũng không nói rõ ràng thêm là "chủ quyền" và "quyền chủ quyền" mà Trung Quốc đòi hỏi trong "đường chín đoạn" là đối với cái gì và dựa trên cơ sở nào.
Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" của yêu sách của mình ở Biển Đông. |
Mặt khác, ẩn trong nội dung của Tuyên bố khởi kiện đó Philippines coi là đường chín đoạn thể hiện yêu sách vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Trung Quốc do Trung Quốc có chủ quyền đối với các vị trí đảo, đá nằm trong đường này và vùng biển đó lớn hơn lãnh hải 12 hải lý (điểm này rõ hơn ở đoạn Philippines nói về vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi liên quan đến bãi Hoàng Nham - Scarborough). Nếu như vậy thì Philippines cũng gắn đường chín đoạn với việc giải thích và áp dụng Điều 121.
Việc Philippines không nói rõ ràng về "đường chín đoạn" chính là muốn "đẩy bóng" sang bên Trung Quốc, lợi dụng vụ kiện này để buộc Trung Quốc làm rõ hoặc giải thích "nội hàm" của yêu sách của mình ở Biển Đông- một điều mà dường như Philippines đã không làm được thông qua đàm phán ngoại giao. Họ quả thực rất khôn khéo.
Trung Quốc sẽ gặp bất lợi nếu không hợp tác
Khi nhận công hàm thông báo khởi kiện từ Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Theresa Lasaro, Đại sứ Trung Quốc tại Manila, bà Ma Keqing, đã khẳng định quan điểm của phía Trung Quốc là những tranh chấp tại Biển Đông cần phải được các bên liên quan giải quyết thông qua đàm phán. Một số nhà bình luận cũng cho rằng Trung Quốc sẽ "phớt lờ" động thái này của Philippines. Ông có dự đoán gì về phản ứng của Trung Quốc?
Việc Đại sứ Trung Quốc nêu quan điểm cho rằng tranh chấp với Philippines ở Biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán song phương là nhất quán với chủ trương của Trung Quốc từ trước đến nay trong các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ. Cũng chính vì vậy, phía Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines đưa tranh chấp tại Biển Đông ra giải quyết bằng biện pháp pháp lý, mà ở đây là thông qua trọng tài quốc tế.
Một số học giả, chủ yếu đánh giá vấn đề từ góc độ quan hệ quốc tế và chính trị quốc tế, cũng cho rằng không có nhiều khả năng tranh chấp được giải quyết bằng thủ tục trọng tài như Philippines mong muốn.
Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn các quy định về trình tự thủ tục liên quan đến việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển thì có thể dự đoán rằng, trừ khi Philippines tự mình rút lại đơn kiện, Trung Quốc sẽ tham gia vào tiến trình pháp lý này.
Phụ lục VII của Công ước Luật Biển đã trù định sẵn các thủ tục về việc thành lập Tòa trọng tài trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận về việc chỉ định trọng tài. Cụ thể đó là, sau khi nhận được thông báo khởi kiện, Trung Quốc sẽ phải chỉ định trọng tài viên của mình trong vòng 30 ngày và sẽ phải thỏa thuận với Philippines về ba thành viên còn lại của Tòa trọng tài trong vòng 60 ngày.
Nếu Trung Quốc không chỉ định trọng tài viên hoặc không đạt được thỏa thuận với Philippines về các trọng tài viên còn lại thì Philippines có thể đơn phương yêu cầu Chánh án Tòa án quốc tế về Luật Biển chỉ định các trọng tài viên này trong vòng hai tuần kể từ khi kết thúc các thời hạn trên. Với thủ tục như vậy, rõ ràng Trung Quốc sẽ gặp bất lợi nếu không hợp tác với Philippines.
Tôi nghĩ rằng nếu Philippines quyết tâm, Trung Quốc sẽ chỉ định trọng tài viên của mình trong Tòa trọng tài đồng thời bảo lưu việc Tòa trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa họ và Philippines. Theo cách này, Trung Quốc sẽ xây dựng lập luận để bác bỏ thẩm quyền của Tòa trọng tài khi vụ kiện được bắt đầu, cho rằng Tòa trọng tài không có thẩm quyền để thụ lý vụ việc.
Đây cũng là chiến lược phổ biến của các bên bị kiện. Trong thực tế Nhật Bản đã thành công với chiến lược này khi bị Úc và New Zealand kiện năm 1998 trước Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII liên quan đến việc bảo tồn và quản lý cá ngừ vây xanh. Tòa trọng tài trong phán quyết năm 2000 đã tuyên bố rằng mình không có thẩm quyền để giải quyết vụ việc.
Vẽ thử kịch bản vụ kiện 'đường lưỡi bò'
Không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.Ông Nguyễn Đăng Thắng (giảng viên khoa Luật, Học viện Ngoại giao) phân tích:
Rất khó có thể dự đoán kết quả của vụ việc khi còn thiếu thông tin. Một đánh giá đầy đủ hơn chỉ có thể được đưa ra khi có các bản biện hộ và lập luận của Philippines và đặc biệt là của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên cơ sở tuyên bố khởi kiện của Philippines có thể có một số nhận xét sau.
Trước hết có thể thấy rằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII hoàn toàn có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 của Công ước Luật Biển đối với các cấu tạo địa chất tại Biển Đông. Vấn đề này không liên quan đến việc phân định biển hay nói đúng hơn là nó nằm trước giai đoạn phân định. Chỉ khi xác định các cấu tạo địa chất ở Biển Đông có vùng biển không và vùng biển đó rộng bao nhiêu thì mới biết có vùng chồng lấn ở đâu và có cần phân định không.
Tuy nhiên, ở đây có vấn đề đáng lưu ý là trong Tuyên bố khởi kiện của mình, Philippines giới hạn việc giải thích và áp dụng điều khoản này ở một số vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng tại Biển Đông chứ mở rộng ra toàn bộ ra các cấu tạo địa chất mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông. Cụ thể, Phi-líp-pin nêu rõ là vụ kiện chỉ liên quan đến bãi Hoàng Nham, ba vị trí tại Trường Sa là Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập cùng các bãi ngầm là Vành Khăn, McKennan, Gaven và Xu-bi mà Philippines cho rằng nằm trên thềm lục địa của họ (tất nhiên Philippines cũng bảo lưu quyền bổ sung, sửa đổi nội dung kiện của mình).
Đây là điểm mạnh và cũng là điểm yếu trong đơn kiện của Philippines. Điểm mạnh đó là các số liệu về địa lý, địa chất liên quan đến các vị trí Trung Quốc chiếm đóng là tương đối rõ ràng và do đó sẽ dễ dàng hơn cho Tòa trọng tài trong việc giải thích và áp dụng Điều 121 đối với các vị trí này (Philippines cũng đã nêu khá cụ thể các thông tin này trong Tuyên bố khởi kiện của mình).
Chẳng hạn, Trung Quốc có thể nêu ngay yêu sách đối với đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines đã đưa dân ra cư trú và cho rằng vị trí đó đáp ứng tiêu chuẩn là một đảo (phù hợp cho con người đến ở hoặc có được một đời sống kinh tế riêng) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, sẽ có vùng chồng lấn giữa một bên là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo Thị Tứ tại Trường Sa mà Trung Quốc cũng yêu sách và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển của Philippines. Để xác định tiếp xem phạm vi vùng biển thuộc đảo Thị Tứ và vùng biển thuộc bờ biển của Philippines là thế nào sẽ đòi hỏi phải tiến hành một công việc giống như phân định - một điều mà Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp này, Philippines sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra đó là khẳng định Trung Quốc tối đa chỉ có thể có các vùng lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các cấu tạo địa chất ở Biển Đông để từ đó khẳng định Philippines có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với Công ước nằm bên ngoài các vùng lãnh hải này.
Tất nhiên, cũng có thể Philippines đã dự trù đến việc này và có chuẩn bị để chứng minh rằng ngay cả những vị trí mà Trung Quốc yêu sách nhưng không chiếm đóng cũng không phải là "đảo" mà chỉ là "đá" theo Điều 121 của Công ước Luật Biển và do đó cũng chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.
Một khả năng nữa có thể xảy ra đó là Trung Quốc sẽ chính thức tuyên bố rằng "đường chín đoạn" là thể hiện yêu sách về quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử của Trung Quốc về Biển Đông (từ trước đến giờ Trung Quốc vẫn "nói bóng gió" về điều này). Trên cơ sở tuyên bố đó, Trung Quốc sẽ lập luận rằng Tọa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến "đường chín đoạn" vì Trung Quốc đã có tuyên bố năm 2006 về các ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài theo Phụ lục VII, theo đó loại bỏ các tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử khỏi thẩm quyền xét xử của Tòa trọng tài.
Tuy nhiên, ở đây có một số điểm chưa rõ ràng trong quy định của Công ước về ngoại lệ này và sẽ cần Tòa trọng tài giải thích. Thứ nhất, không rõ rằng ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có yếu tố lịch sử, kể cả yêu sách về quyền lịch sử và vùng nước lịch sử, hay chỉ giới hạn ở những tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử theo đúng lời văn của Công ước.
Thứ hai, nếu ngoại lệ về tranh chấp có yếu tố lịch sử được hiểu theo nghĩa rộng thì cũng vẫn chưa rõ rằng liệu tranh chấp đó bao gồm cả tranh chấp về việc có tồn tại quyền lịch sử, vùng nước lịch sử hay không, hay chỉ giới hạn ở tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền lịch sử hay sử dụng một vùng nước lịch sử đã được xác lập và công nhận.
Nhưng có thể chắc chắn rằng Philippines đã dự trù về điều này và có chuẩn bị lập luận riêng của mình về vấn đề này theo hướng hạn chế ngoại lệ mà Trung Quốc đưa ra.
Với việc kiện Trung Quốc, Philippines thách thức tuyên bố
của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Fu Yuing trước Ngoại trưởng del
Rosario rằng không được quốc tế hóa tranh chấp giữa họ, bằng cách 1. đưa
vấn đề ra Liên hợp quốc và 2. đưa vấn đề ra với các bên thứ ba, bao gồm
các đồng minh của Philippines (như Mỹ) và 3. không tiến hành cuộc họp
báo công khai. Nói cách khác, Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia. |
Ba mũi nhọn này là ngoại giao, chính trị và pháp lý. Philippines đưa ra bốn cáo buộc. Một là, “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là phi pháp xét theo luật pháp quốc tế. Hai là, Trung Quốc đã chiếm giữ và xây dựng cơ sở trên các bãi đá ngầm, bãi cạn, bãi cạn lúc chìm lúc nổi… trên biển Đông và gọi chúng một cách bất hợp pháp là “đảo”. Ba là, Trung Quốc đã can thiệp bất hợp pháp vào các hoạt động bảo vệ chủ quyền của Philippines trong vùng lãnh hải nước này. Bốn là, Philippines tìm kiếm một phán quyết trong luật pháp quốc tế về vấn đề mà Trung Quốc chưa đưa vào danh sách “không chấp nhận” của Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định đã vận dụng mọi giải pháp chính trị và ngoại giao để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc một cách hòa bình nhưng bất thành. Nếu Philippines không hành động, cộng đồng quốc tế sẽ cho rằng Manila ngầm chấp thuận việc Trung Quốc “thực hiện chủ quyền” trên vùng biển Philippines bằng các tàu hải giám. Trên thực tế, Trung Quốc đã thôn tính bãi cạn Scarborough bằng việc triển khai tàu chiến, tàu tuần tra tại khu vực này, thậm chí còn lập rào chắn. Ngư dân Trung Quốc cứ tiếp tục đánh bắt cá trái phép trên vùng biển của Philippines.
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) đưa ra bốn cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ: Tòa án luật biển quốc tế (ITLOS), Tòa án công lý quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài và Tòa án trọng tài đặc biệt. Philippines đã tuân thủ mọi quy trình của UNCLOS. Các nước khi ký kết UNCLOS là đã chấp nhận việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Đầu tiên các nước phải giải quyết tranh chấp song phương. Nếu không đạt được thỏa thuận, một quốc gia có quyền đưa vụ việc ra tòa quốc tế theo UNCLOS. Quốc gia này có quyền chọn ITLOS hoặc Tòa án trọng tài.
Philippines đã chọn Tòa án trọng tài. Ban đầu Tòa án trọng tài sẽ xác định cơ quan này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Có nghĩa là tòa án sẽ xác định lập luận của Philippines có bao gồm việc diễn giải hoặc áp dụng UNCLOS hay không. Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu một địa điểm tranh chấp là đảo, bãi cạn hay bãi đá ngầm. Quan trọng hơn, Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu Trung Quốc có can thiệp bất hợp pháp vào chủ quyền lãnh thổ của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines hay không.
Tàu hải giám Trung Quốc xuất hiện gần bãi cạn Scarborough Ảnh: AFP
Chính quyền Philippines đã lựa chọn một cách cẩn thận những khía cạnh pháp lý đặc thù trong tranh chấp với Trung Quốc để đưa ra tòa án Liên Hiệp Quốc. Bất kỳ một phán quyết nào của Tòa án trọng tài phủ nhận “đường lưỡi bò” của Trung Quốc cũng đều có lợi cho các quốc gia khác có đòi hỏi chủ quyền trên biển Đông. Các nước như Việt Nam hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm và tiền lệ của Philippines.
Thúc đẩy quốc tế hóa tranh chấp biển Đông
Hành động chính trị – pháp lý của Philippines sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình “quốc tế hóa” tranh chấp biển Đông. Nó cũng có thể dẫn tới phản ứng dây chuyền tại các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại biển Đông. Có thể các quốc gia này sẽ theo gương Manila đưa tranh chấp với Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế.
Lường định những rủi ro có thể có, các nhà hoạch định chính sách ở Manila không hề hành động một cách bất cẩn. Trong nhiều tháng qua, dưới sự chủ trì của Ngoại trưởng Albert del Rosario, các học giả và luật sư Philippines và quốc tế đã hình thành một chiến lược pháp lý. Sự khôn khéo của Manila là việc chọn một khía cạnh pháp lý – chính trị liên quan “đường lưỡi bò” mà dư luận quốc tế đều thừa nhận là phi lý. Một khi “đường lưỡi bò” bị bác bỏ về mặt pháp lý và công lý quốc tế, lợi ích của Philippines tại bãi cạn Scarborough cũng sẽ được bảo vệ. Ở mức độ, vụ kiện này sẽ góp phần vào cuộc đấu tranh chung về pháp lý, chính trị, ngoại giao để tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp trên biển Đông. “Cách tiếp cận luật pháp quốc tế” luôn là một sự lựa chọn có giá trị, một lá bài chiến lược để ngỏ.
Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.
Không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc Ông Nguyễn Đăng Thắng (giảng viên khoa Luật, Học viện Ngoại giao) phân tích:
Rất khó có thể dự đoán kết quả của vụ việc khi còn thiếu thông tin. Một đánh giá đầy đủ hơn chỉ có thể được đưa ra khi có các bản biện hộ và lập luận của Philippines và đặc biệt là của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trên cơ sở tuyên bố khởi kiện của Philippines có thể có một số nhận xét sau.
Trước hết có thể thấy rằng Tòa trọng tài theo Phụ lục VII hoàn toàn có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Điều 121 của Công ước Luật Biển đối với các cấu tạo địa chất tại Biển Đông. Vấn đề này không liên quan đến việc phân định biển hay nói đúng hơn là nó nằm trước giai đoạn phân định. Chỉ khi xác định các cấu tạo địa chất ở Biển Đông có vùng biển không và vùng biển đó rộng bao nhiêu thì mới biết có vùng chồng lấn ở đâu và có cần phân định không.
Biển Đông
Đây là điểm mạnh và cũng là điểm yếu trong đơn kiện của Philippines. Điểm mạnh đó là các số liệu về địa lý, địa chất liên quan đến các vị trí Trung Quốc chiếm đóng là tương đối rõ ràng và do đó sẽ dễ dàng hơn cho Tòa trọng tài trong việc giải thích và áp dụng Điều 121 đối với các vị trí này (Philippines cũng đã nêu khá cụ thể các thông tin này trong Tuyên bố khởi kiện của mình).
Tuy nhiên, điểm yếu đó là Trung Quốc hoàn toàn có thể lập luận rằng yêu sách về chủ quyền của họ ở Biển Đông không chỉ giới hạn ở các vị trí mà Trung Quốc đang chiếm đóng như Philippines nêu, mà mở rộng ra nhiều vị trí khác, trong đó có cả các cấu tạo lớn hơn và nhô cao lên khỏi mặt nước.
Chẳng hạn, Trung Quốc có thể nêu ngay yêu sách đối với đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines đã đưa dân ra cư trú và cho rằng vị trí đó đáp ứng tiêu chuẩn là một đảo (phù hợp cho con người đến ở hoặc có được một đời sống kinh tế riêng) để có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, sẽ có vùng chồng lấn giữa một bên là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo Thị Tứ tại Trường Sa mà Trung Quốc cũng yêu sách và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển của Philippines. Để xác định tiếp xem phạm vi vùng biển thuộc đảo Thị Tứ và vùng biển thuộc bờ biển của Philippines là thế nào sẽ đòi hỏi phải tiến hành một công việc giống như phân định – một điều mà Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp này, Philippines sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra đó là khẳng định Trung Quốc tối đa chỉ có thể có các vùng lãnh hải rộng 12 hải lý xung quanh các cấu tạo địa chất ở Biển Đông để từ đó khẳng định Philippines có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với Công ước nằm bên ngoài các vùng lãnh hải này.
Tất nhiên, cũng có thể Philippines đã dự trù đến việc này và có chuẩn bị để chứng minh rằng ngay cả những vị trí mà Trung Quốc yêu sách nhưng không chiếm đóng cũng không phải là “đảo” mà chỉ là “đá” theo Điều 121 của Công ước Luật Biển và do đó cũng chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng Philippines trù bị cho các bước tiếp theo, sử dụng đến cơ chế, thủ tục khác để giải quyết vấn đề phân định với Trung Quốc.
Vụ kiện 'đường lưỡi bò'
Tuy nhiên, ở đây có một số điểm chưa rõ ràng trong quy định của Công ước về ngoại lệ này và sẽ cần Tòa trọng tài giải thích. Thứ nhất, không rõ rằng ngoại lệ đối với thẩm quyền của Tòa trọng tài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có yếu tố lịch sử, kể cả yêu sách về quyền lịch sử và vùng nước lịch sử, hay chỉ giới hạn ở những tranh chấp liên quan đến vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử theo đúng lời văn của Công ước.
Thứ hai, nếu ngoại lệ về tranh chấp có yếu tố lịch sử được hiểu theo nghĩa rộng thì cũng vẫn chưa rõ rằng liệu tranh chấp đó bao gồm cả tranh chấp về việc có tồn tại quyền lịch sử, vùng nước lịch sử hay không, hay chỉ giới hạn ở tranh chấp liên quan đến việc thực thi quyền lịch sử hay sử dụng một vùng nước lịch sử đã được xác lập và công nhận.
Nhưng có thể chắc chắn rằng Philippines đã dự trù về điều này và có chuẩn bị lập luận riêng của mình về vấn đề này theo hướng hạn chế ngoại lệ mà Trung Quốc đưa ra.
Với việc kiện Trung Quốc, Philippines thách thức tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Fu Yuing trước Ngoại trưởng del Rosario rằng không được quốc tế hóa tranh chấp giữa họ, bằng cách 1. đưa vấn đề ra Liên hợp quốc và 2. đưa vấn đề ra với các bên thứ ba, bao gồm các đồng minh của Philippines (như Mỹ) và 3. không tiến hành cuộc họp báo công khai.
Nói cách khác, Philippines đã mở mặt trận pháp lý chống lại mong muốn của Trung Quốc. Đòi hỏi của Trung Quốc rằng Biển Đông không bị quốc tế hóa nay đã bị ném xuống biển. GS Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia.
Tranh chấp lãnh hải: Những sự thực trớ trêu
Tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và Hoa Đông có nguy cơ đe dọa làm chệch hướng Thế kỷ châu Á.Châu Á thế kỷ 21 hoàn toàn có thể xảy ra những biến cố giống như vụ ám sát hoàng tử Áo Ferdinand, sự kiện châm ngòi cho Đại chiến thế giới thứ nhất. Căng thẳng gia tăng trong các tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông và Hoa Đông đe dọa phá vỡ Thế kỷ được dự báo là của châu Á này. Chưa rõ kết quả sẽ ra sao, nhưng ở đây rõ ràng không chỉ tồn tại những chủ nghĩa dân tộc đang đấu tranh với nhau, những vết sẹo còn hằn sâu trong ký ức mỗi quốc gia và sự trỗi dậy của một Trung Quốc ngày càng hung hăng đằng sau những xung đột lợi ích.
Với nhiều người, tất cả là vì dầu mỏ: quan điểm được nhiều người chia sẻ là dưới các vùng biển tranh chấp này chứa đựng một kho báu dầu khí có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng của tất cả các nền kinh tế châu Á năng động.
Thế nhưng thật trớ trêu khi vẫn chưa hề có một cơ sở nào khẳng định suy nghĩ phổ biến này. Trên thực tế, người chiến thắng trong các tranh chấp Biển Đông và Hoa Đông cũng khó có khả năng kiếm được nhiều năng lượng đủ để tạo sự khác biệt đáng kể cho nhu cầu năng lượng ngày một lớn của mình. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp của Trung Quốc. Trong bất kỳ tình huống nào, việc khai thác nguồn tài nguyên nào đang tồn tại sẽ đòi hỏi sự chắc chắn và ổn định cao về pháp lý cũng như chính trị.
Một nhân tố mới có thể làm gia tăng rủi ro trong tranh chấp là những tiến bộ không ngừng của công nghệ khoan biển sâu. Cho tới những năm 1990, gần như không có giàn khoan dầu khí ngoài khơi nào có thể hoạt động tại các mỏ sâu hơn 304m. Trong 2 thập niên trở lại đây, nguồn dầu tăng trên khắp thế giới có được nhờ công nghệ khoan "siêu sâu" - với độ sâu tới 1.500m. Cho đến gần đây, công nghệ này vẫn chỉ giới hạn chủ yếu trong các công ty năng lượng đa quốc gia lớn của phương Tây. Sau đó, tháng 5 năm ngoái, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) tuyên bố phát triển thành công giàn khoan dầu nước sâu với chi phí chỉ xấp xỉ 1 tỷ USD, có khả năng hút dầu ở độ sâu 12.000m.
Đến nay, vẫn chưa có khảo sát chính thức nào về tiềm năng dầu khí tại Biển Đông hay Hoa Đông. Ước tính của Trung Quốc về trữ lượng dầu khí ở cả hai khu vực tranh chấp xem ra quá phóng đại so với số liệu của các công ty năng lượng đa quốc gia lớn và nhiều nhà phân tích khác. Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu ở biển Hoa Đông là 160 tỷ thùng, gần gấp đôi con số ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ.
Về trữ lượng Biển Đông - theo đa số các chuyên gia, khoảng 70% là khí gas - Trung Quốc cũng khẳng định con số cao hơn nhiều. CNOOC ước tính có khoảng 213 tỷ thùng dầu - gần bằng quy mô trữ lượng đã kiểm chứng của Ả-rập Xê-út. Con số này cao gần gấp 12 lần ước tính của Cơ quan Địa chất Mỹ, và hãng tư vấn năng lượng Wood-Mackenzie nhận định có tổng cộng 2,5 tỷ thùng quy dầu khí đã kiểm chứng ở các đảo và bãi ngầm thuộc Biển Đông - tức là thấp hơn gần 100 lần so với khẳng định của Trung Quốc!
Ngoại trừ Trung Quốc và các doanh nghiệp nước này đã thực hiện các dự án khai thác chung với các công ty nước ngoài, nhiều quốc gia Đông Á đang tìm cách khai thác nguồn tài nguyên tại các đảo và bãi đá tranh chấp cũng cần hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, nhiều bên tranh chấp trong ASEAN tại Biển Đông đã ký các hợp đồng thăm dò dầu với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, rủi ro chính trị và thiếu pháp lý vững chắc tại các lãnh thổ tranh chấp khiến họ khó nhận được những khoản đầu tư quy mô lớn.
Theo tác giả, hợp lý nhất vẫn sẽ là chính sách mà Trung Quốc đã theo đuổi cho tới gần đây, như sáng kiến của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, "gác tranh chấp, cùng khai thác". Tuy nhiên, trước thực tế quá trình ra quyết sách thiếu rõ ràng của Trung Quốc, không khó để đưa ra nhận định rằng sự kết hợp giữa tham vọng hải quân, chính sách tài nguyên mang màu sắc chủ nghĩa trọng thương, và niềm tin quá lớn vào nguồn năng lượng và năng lực công nghệ dầu khí mới có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc từ bỏ đường lối chính sách trên của Đặng Tiểu Bình.
Trên thế giới và trong khu vực cũng có nhiều tiền lệ khai thác tài nguyên chung. Các nước Bắc cực đã ký một thỏa thuận khai thác chung. Ở Đông Á, Thái Lan và Malaysia cũng có một hiệp định khai thác dầu khí chung và hiệp ước tương tự cũng tồn tại giữa Đông Timor và Australia.
Chưa hết, Trung Quốc và Nhật Bản cũng từng đạt được thỏa thuận khai thác dầu khí chung trong khu vực xung quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku hoang đang tranh chấp vào năm 2008. Bắc Kinh và Tokyo thống nhất cùng khai thác 4 mỏ khí tại Hoa Đông và gác lại hoạt động khai thác tại các khu vực tranh chấp khác. Hai bên đồng ý tiến hành khảo sát chung, và đầu tư ngang nhau vào khu vực phía bắc mỏ khí Chunxiao/Shirakaba và phía nam mỏ khí Longjing/Asunaro. Tuy nhiên, Trung Quốc đã bắt đầu đơn phương khai thác mỏ khí Tianwaitian/Kashi, dẫn đến cuộc biểu tình phản đối tại Nhật Bản vào tháng 1/2009. Hành động gây tranh cãi đó, cùng với cuộc đụng độ năm 2010 giữa tàu cá Trung Quốc với tàu cảnh sát biển Nhật Bản đã làm trì hoãn việc thự thi hiệp định.
Tại Đông Á đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc các chính phủ mới sau khi lên nắm quyền tại Tokyo, Seoul và Bắc Kinh sẽ ảnh hưởng ra sao đến các tranh chấp lãnh thổ. Chỉ riêng việc gia tăng hoạt động của các tàu tuần tra tại khu vực tranh chấp cùng với các cuộc tuần tra trên không đủ báo hiệu năm 2013 có thể sẽ chứng kiến ít nhất một vài cuộc đụng độ hải quân. Trong một tín hiệu tích cực hơn, Thủ tướng Nhật Bản Shintaro Abe, một lãnh đạo theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hăng hái, đã nhanh chóng cử phái viên cấp cao tới Seoul, nơi đang có tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản, để trấn an chính phủ mới của bà Park Geun-hye và cố gắng nối lại quan hệ hữu nghị.
Quan hệ Trung-Nhật đang đặc biệt căng thẳng khi Trung Quốc cử các tàu của cơ quan an ninh biển đi tuần tễu hằng ngày quanh Senkaku và một số nhân vật tại Nhật Bản đe dọa cử Lực lượng phòng vệ trên không bắn cảnh báo. Như khi giữ chức vụ thủ tướng năm 2006, ông Abe đã tiến hành nỗ lực đặc biệt để xoa dịu quan ngại của Trung Quốc khi lên cầm quyền. Lấy kinh tế làm ưu tiên và cuộc bầu cử Thượng viện diễn ra trong tháng 7, ông Abe được chờ đợi sẽ hạn chế đối đầu - ít nhất trong ngắn hạn. Nhưng trước sự phẫn nộ của người dân với những hành vi khiêu khích từ Trung Quốc, ông Abe và nội các đang "say đắm" chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ càng khấy động tình hình.
Mỹ đã kêu gọi cả hai bên kiềm chế căng thẳng và một phái đoàn quan chức an ninh và ngoại giao cấp cao đã được cử sang để cố vấn cho các đồng minh Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cuối cùng, một loạt các tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại châu Á chắc chắn sẽ không mang đến vận may năng lượng cho bất kỳ ai. Trừ khi khu vực có thể tìm ra lối đi giải quyết hay ít nhất là quản lý khát vọng dân tộc chủ nghĩa đang thúc đẩy điều lẽ ra chỉ là những cuộc tranh chấp nhỏ đối với một số đảo và bãi ngầm hoang, nếu không, Thế kỷ châu Á cũng sẽ sớm chấm dứt mà thôi.
Trâm Anh theo Robert A. Manning/ Yale Global
Tác giả Robert A. Manning nguyên là cố vấn cấp cao (2001-2004) và thành viên Tổ hoạch định chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ từ năm 2004-2008. Hiện ông đang là thành viên cấp cao của Trung tâm An ninh quốc tế Brent Scowcroft của Hội đồng Thái Bình Dương.
Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012
Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012
Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012
Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012
Tại sao Napoleon thất bại khi xâm lược Nga?
Có thể nói, hành quân là thách thức lớn nhất trong mọi thách thức mà các tướng lĩnh phải đối mặt trong lịch sử - và cuộc xâm lược nước Nga của Napoleon Bonaparte cách đây 200 năm cho thấy mọi việc có thể trở nên tồi tệ thế nào nếu được đánh giá không đúng mức.

Hình ảnh quân Pháp rút khỏi Moscow năm 1812 được tái hiện trong bức tranh sơn dầu của cố họa sĩ January Suchodolski (1797–1875).
Chỉ di chuyển lực lượng từ điểm A tới điểm B thì chưa đủ, bạn phải lo đủ lương thực và nước uống cho binh lính khi họ hành quân. Bởi vậy, tài vận chuyển quân là một trong những nhiệm vụ quan trọng và phức tạp nhất mà mọi vị chỉ huy đều phải quán triệt nếu muốn giành chiến thắng.
Năm 1812, Napoleon đang trong men say chiến thắng vì các kẻ thù đều bị đánh bại. Đội quân vĩ đại gồm 400.000 người của ông được cho là bất khả chiến bại và Napoleon tự vẽ ra một chiến thắng nhanh chóng ở Nga.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng 6 tháng, lực lượng khổng lồ của ông đã giảm xuống còn một nhúm người rời rạc tả tơi, và cứ 20 binh sĩ thì có chưa đến một người sau này được gặp lại gia đình. Tại sao lại như thế?
Trong các chiến dịch trước đó ở Đông Âu, Napoleon đã giải quyết được vấn đề lương thực cho binh sĩ bằng cách cho phép họ "tận hưởng cuộc sống" - hoặc cướp bóc hoặc mua hết các nguồn cung trong khi tiến quân. Tuy nhiên, ý thức được rằng một lợi thế như vậy sẽ là điều không thể ở "những vùng đất khô cằn của Ukraine", Napoleon đã dự định cho mang theo lương thực thực phẩm.
Đây là một chiến dịch hậu cần với quy mô cực lớn, đòi hỏi một đoàn xe ngựa của không dưới 26 tiểu đoàn - 8 tiểu đoàn được trang bị 600 các xe ngựa vừa và nhỏ/mỗi tiểu đoàn, và số còn lại được trang bị 252 xe 4 ngựa kéo/mỗi tiểu đoàn với sức chuyên chở 1,36 tấn (tổng cộng là 9.300 xe ngựa).
Để đưa tất cả số xe ngựa này vào hoạt động và di chuyển các kỵ binh cùng pháo binh, Napoleon cần đến 250.000 con ngựa và rất nhiều cỏ mỗi ngày.
Và những con số trên không được tính đến.
Nếu Napoleon tới được Moscow trong 2 tháng, và chỉ với một nửa trong tổng số 400.000 binh sĩ lúc đầu, ông sẽ vẫn cần đến số quân nhu tổng cộng là 16.330 tấn - gần như gấp đôi khả năng chuyên chở các đoàn tiếp tế.
Thay vào đó, Napoleon tiến quân chỉ với các khẩu phần cho 24 ngày. Rõ ràng, ông đang mạo hiểm một chiến thắng nhanh chóng và một chiến dịch mà sẽ không thể kéo dài hơn 3 tuần. Đó là một điều mơ tưởng.
Người Nga đã quyết định dừng chiến đấu và phá sạch mùa màng cùng quân nhu khi rút đi, lừa Napoleon tiến sâu hơn vào những khu rừng, đầm lầy và những đồng cỏ mênh mông.
Trong khi đó, Đội quân Vĩ đại hao tổn 5.000 người mỗi ngày do tình trạng đào ngũ, bệnh tật và tự vẫn. Còn đàn ngựa tử vong với tốc độ 50 con/km, chủ yếu do ăn uống mất vệ sinh.
Chỉ có hai trận đánh lớn - ở Smolensk, nơi quân Nga thua trận, và ở Borodino, gần Moscow, một cuộc đọ sức đẫm máu dẫn tới thương vong ở cả hai phía là 40.000 người.
Khi phía Nga tiếp tục rút lui, Napoleon tiến vào Moscow vào giữa tháng 9 với sức mạnh chỉ còn 1/4 so với ban đầu. Tuy nhiên, Sa hoàng Alexander I nhất quyết không thương thuyết, và các vấn đề về hậu cần do chính sách "vườn không nhà trống" của ông gây ra đã khiến Napoleon gần như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải rút lui.
Tuy nhiên, những khó khăn này mới chỉ là bắt đầu. Tiến vào Nga giữa tháng 6, và đã tiên liệu một chiến dịch chóng vánh, đàn ngựa của Nepoleon vẫn đóng móng mùa hè.
Nhưng mùa đông khắc nghiệt của nước Nga nhanh chóng kéo tới, và hậu cần ít ỏi đã khiến ông phải trả giá đắt. Móng mùa đông được trang bị với những chiếc đinh nhỏ để ngựa đi vững trên băng tuyết và không bị trượt ngã. Không có những chiếc móng đó, một con ngựa không thể kéo một chiếc xe lên hay xuống núi.
Vào mùa đông năm 1812 ở Nga, thực trạng này đã gây ra thảm họa cho lực lượng vốn đã suy giảm của Napoleon. Ngựa được đóng móng mùa hè sẽ bị "ngã xuống phía dưới dù chúng đang kéo vật gì", theo ngôn từ của Bernie Tidmarsh, một trong những người thợ đóng móng bậc thầy ở Anh. "Chúng sẽ không thể làm chủ được khi xuống cũng như khi lên núi", ông mô tả. "Kết quả cuối cùng thường là gãy chân".
Bị đói, rét và quân Nga tấn công, Đội quân Vĩ đại trở nên tan tác.
Vào thời điểm Napoleon bỏ mặc đội quân của mình cho số phận của họ ở Ba Lan - trở về Paris ngày 5/12 - quân số khi ấy còn chưa đầy 10.000 người đủ sức chiến đấu. Đó là một thảm họa mà Napoleon không bao giờ khắc phục được.
Hành trình rút quân dài dằng dặc từ Moscow của Napoleon đã đi vào lịch sử như một trong những thảm họa hậu cần khủng khiếp nhất của mọi thời đại. Không đủ ngựa để vận chuyển cho quãng đường cách xa 2.400km, đội quân của ông không còn cơ hội.
Tuy nhiên, nếu chuẩn bị tốt về hậu cần, một vị tướng có thể tranh thủ được lợi thế trước kẻ thù.
Có lẽ, ví dụ gần nhất của điều này là trong thời kỳ Chiến tranh Pháp - Phổ 1870-71, khi tư lệnh Phổ Helmuth von Moltke tận dụng năng lực của các tuyến đường sắt Đức để tập trung lực lượng trước khi Pháp có thể làm điều đó. Giành được thế chủ động, ông không từ bỏ nó cho đến khi Phổ thắng lợi, một chiến thắng đã mở ra sự thống nhất nước Đức.
Tuy thế, ngựa vẫn là phương tiện chủ chốt để vận tải binh lính và quân nhu qua các địa thế hiểm trở cho đến khi xe Jeep được quân đội Mỹ đưa vào sử dụng thời kỳ Thế chiến II. Loại xe này rất bền, chắc và linh hoạt. Chúng có thể được sử dụng cho rất nhiều mục đích, có thể vận chuyển người bị thương hoặc đồ tiếp tế. Nhờ những bánh xe đặc biệt, chúng thậm chí còn có thể chạy trên đường tàu.
Các cuộc chiến tranh của Napoléon, hay thường được gọi tắt là Chiến tranh Napoleón là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các khối liên minh các nước châu Âu chống lại Đế chế thứ nhất. Trên đà các cuộc chinh phục cách mạng từ năm 1789, nước Pháp đã phát triển sức mạnh của mình rất nhanh khi đội quân của Napoleon chinh phục được phần lớn châu Âu. Tuy nhiên, sự thất bại còn nhanh hơn, bắt đầu từ sau thảm họa của cuộc tiến công nước Nga năm 1812 cho đến thất bại quyết định trong trận Waterloo năm 1815, Đế chế của Napoleon cuối cùng đã bị đánh bại hoàn toàn về quân sự và kết quả là sự phục hưng của vương triều Bourbon ở Pháp. Chiến tranh Napoléon đã giúp cách mạng hóa lực lượng quân đội các nước châu Âu, trong đó có việc sử dụng pháo binh cũng như các tổ chức quân sự. Diễn ra với một quy mô chưa từng thấy - chủ yếu là nhờ vào việc áp dụng chế độ cưỡng bách tòng quân số lượng lớn hiện đại - toàn bộ các cuộc xung đột này đã khiến cho tổng cộng khoảng 2,5 triệu người chết, trong đó 1,5 triệu là binh lính và 1 triệu thường dân.
Chiến tranh Napoleón đã dẫn đến sự tan rã của Đế quốc La Mã Thần thánh và gieo mầm cho chủ nghĩa dân tộc hình thành tại Đức và Ý, mà sau này đã giúp dẫn đến việc thống nhất hai quốc gia này vào giữa thế kỷ 19. Đồng thời, đế quốc khắp hoàn cầu của Tây Ban Nha cũng bắt đầu tan vỡ khi chính quốc Tây Ban Nha bị nước Pháp chiếm đóng, làm suy yếu quyền kiểm soát của nó đối với các thuộc địa, mở màn cho một loạt các cuộc chiến tranh giành độc lập tại những nước châu Mỹ. Và một hệ quả trực tiếp khác của chiến tranh Napoleon là Đế quốc Anh đã trở thành cường quốc mạnh nhất thế giới trong một thế kỷ tiếp sau đó,[1] giai đoạn được gọi là Nền hòa bình Anh.
Cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí về thời điểm kết thúc của cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và bắt đầu của Chiến tranh Napoléon. Ban đầu người ta cho rằng thời điểm đó là vào ngày 9 tháng 11 năm 1799, khi tướng Bonaparte lên nắm quyền lãnh đạo nước Pháp sau cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, nhưng đa số đều quan niệm các cuộc chiến của cuộc Cách mạng Pháp kéo dài tới năm 1802 và lời tuyên chiến giữa Pháp và Anh ngày 18 tháng 5 năm 1803 - sau khi một thời gian hòa bình ngắn ngủi tiếp theo Hòa ước Amiens năm 1802 - là điểm xuất phát của các cuộc chiến tranh Napoléon. Các cuộc chiến này chấm dứt sau thất bại cuối cùng của Napoléon tại trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815 và Hòa ước Paris thứ hai ký ngày 20 tháng 11 cùng năm đó.
Vương quốc Anh - cường quốc chính còn chiến tranh với Pháp - tài trợ một Liên minh thứ hai gồm Anh, Nga, Áo, Đế quốc Ottoman, Thụy Điển, Vương quốc Lưỡng Sicilia, Đế quốc La mã thần thánh. Chính phủ Pháp thời đó vừa tham nhũng vừa bất ổn, đã không thể chống lại các cuộc đảo chính, cũng không thể đối mặt với sự đe dọa từ bên ngoài, thiếu các bộ trưởng giỏi như Carnot, hoặc tướng tài như Bonaparte (vì sang Ai cập). Quân Pháp bị quân của Liên minh dưới sự chỉ huy cuả tướng Nga Aleksandr Vasilyevich Suvorov đánh bại.
Bonaparte trao quyền chỉ huy quân đội ở Ai Cập cho tướng Jean Baptiste Kléber, trở về Pháp làm một cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng sương mù (9 tháng 11 năm 1799), lật đổ Ban đốc chính (Directoire) và lên nắm quyền. Sự đe dọa cấp bách nhất là cuộc tấn công của Áo cùng một lúc tại 2 mặt trận ở Ý và Đức. Viên Đệ nhất tổng tài (Napoléon) tổ chức một đạo quân gọi là trừ bị, vượt qua dãy núi Alps sang Ý. Ngày 18 tháng 6 năm 1800 Napoléon thắng trận Marengo (Ý) và ngày 3 tháng 12 năm 1800, tướng Jean Victor Marie Moreau cũng thắng quân Áo tại Hohenlinden (Đức). Hòa ước Lunéville[3] được ký ngày 9 tháng 2 năm 1801 giữa Pháp và Áo.
Chỉ còn Anh là vẫn chống lại Pháp. Anh có một hạm đội mạnh, làm chủ trên biển. Sau một chiến thắng trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ở mũi Saint Vincent (1797), rồi trận diệt hạm đội Pháp ở Aboukir (Ai Cập) ngày 1 tháng 8 năm 1798, hạm đội Anh tiếp tục đe dọa Quần đảo Antilles thuộc Pháp, và họ đủ sức kết hợp các cường quốc ở lục địa châu Âu chống lại Pháp. Quân đội Áo cũng vậy, mặc dù bị nhiều thất bại, vẫn còn là một mối đe dọa đối với Pháp.
Cuộc chiến trên biển vẫn tiếp tục, không gián đoạn. Đan Mạch - Na Uy trước kia trung lập, làm giầu nhờ buôn bán trong chiến tranh. Sau cuộc biểu dương sức mạnh của Anh trong trận pháo kích Copenhagen5 năm 1801, hạm đội Anh đã bắt giữ phần lớn các tàu của Đan Mạch trong trận pháo kích Copenhagen lần 2 (năm 1807). Đan Mạch từ bỏ thái độ trung lập và lao vào cuộc chiến cướp bóc trên biển, dùng các đại bác nhỏ bắn vào các tàu lớn của Anh. Cuộc chiến này chấm dứt, khi hạm đội Anh thắng trận Lyngor, đánh đắm tàu hộ tống cuối cùng của Đan Mạch.
Khi sự thù hận tái diễn vào năm 1805, thì vương quốc Anh làm chủ trên biển bằng chiến thắng quyết định trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ở Trafalgar (tây nam Tây Ban Nha) ngày 21.10.1805 và dễ dàng đẩy lui đoàn quân viễn chinh của Pháp tiến sang Ireland. Tuy nhiên, các trận hải chiến vẫn tiếp tục. Một trận hải chiến ở vùng Caribbe có hậu quả trực tiếp và tức thời đối với diễn tiến của cuộc chiến, vì đã đẩy Napoléon quay về lục địa châu Âu.
Phe đồng minh của Pháp gồm có Tây Ban Nha, Ý, Cộng hòa Bayern, công quốc Baden và Württemberg. Napoléon chuẩn bị tập trung tại Boulogne (Pháp) để xâm chiếm Anh, cuộc xâm chiếm mà Pháp cần phải làm chủ được eo biển Manche. Ông ta lập một kế hoạch phức tạp để lôi kéo hạm đội Anh về phía các thuộc địa ở vùng Tây Ấn (Caribbe). Quân Áo xâm chiếm CH Bayern với đội quân gồm 70.000 người do tướng Karl Mack chỉ huy. Napoléon lập tức quay về lục địa châu Âu. Cuối tháng 7 năm 1805, Đại quân của Pháp chia ra 7 mũi lao vào quân Áo. Tại trận Ulm (Đức) từ 25 tháng 9 tới 20 tháng 10 năm 1805, Napoléon vây hãm tướng Karl Mack, khiến sau đó Mack phải đầu hàng. Cùng lúc đó đội quân Áo ở phía nam dãy núi Alpes do Công tước Charles đối đầu với thống chế Pháp André Masséna cũng không mang lại kết quả. Napoléon chiếm Wien. Nhưng đô đốc Pháp Pierre-Charles Villeneuve thất trận ở mũi Finisterre (22 tháng 7 năm 1805) và cố thủ tại Cadiz (Tây Ban Nha). Hạm đội này sau đó lại thua trận Trafalgar (21 tháng 10 năm 1805). Cuộc chiến quyết định này đã kết thúc ý đồ xâm chiếm nước Anh.
Dù gặp khó khăn vì các tuyến đường tiếp tế quá kéo dài, Napoléon vẫn thắng một trận chiến lớn trước liên quân Áo - Nga đông hơn do Sa hoàng Aleksandr I của Nga, tướng Nga Mikhail Kutuzov và hoàng đế Franz II của Áo chỉ huy vào ngày 2 thág 12 năm 1805 tại trận Austerlitz[7] (nay là Slavkov, Cộng hòa Séc). Liên quân Áo - Nga mất 25.000 quân, trong khi Pháp chỉ mất 7.000. Đây được coi là thắng lợi lớn nhất của Napoléon. Áo phải ký hòa ước Pressburg (nay là Bratislava, Slovakia) ngày 26 tháng 12 năm 1805, nhượng Venezia cho Ý (do Napoléon làm vua) và vùng Tyrol cho Vương quốc Bayern. Liên minh thứ ba giải tán.
Quả nhiên Napoléon và thống chế Louis-Nicolas Davout đã đánh bại quân Phổ ở các trận Jena và Auerstedt ngày 14 tháng 10 năm 1806. Quân Phổ bị chết 25.000 người, 150.000 người bị bắt làm tù binh, Pháp tịch thu 100.000 súng trường và 4.000 súng đại bác. Ngày 27 tháng 10 năm 1806, Napoléon vào Berlin. Ông ta viếng mộ Friedrich II của Phổ và tuyên bố trước các tướng lãnh Pháp: "Nếu ông ta còn sống thì ngày hôm nay chúng ta không thể tới đây". Tính chung Napoléon chỉ mất 19 ngày, từ khi bắt đầu trận chiến tới khi vào Berlin. Sau thất bại này, Phổ ký hiệp ước đình chiến tại Charlottenburg (Berlin). Tại Berlin, Napoléon ban bố một loạt sắc lệnh, có hiệu lực từ 1 tháng 11 năm 1806, chủ trương một cuộc Phong tỏa lục địa9, cấm mọi việc buôn bán với Anh trong các nước chịu ảnh hưởng của Pháp. Quân đội Anh thời đó đã giảm bớt còn khoảng 220.000 người, đối với Đại quân Pháp có lúc trên 1 triệu quân, kể cả quân các nước đồng minh và vệ binh. Trái lại hạm đội Anh gây khó cho việc buôn bán hàng hải của Pháp, nhưng không gây trở ngại cho việc buôn bán trên lục địa, và cũng không đe dọa lãnh thổ Pháp. Hơn nữa, dân số và việc sản xuất (kỹ nghệ, nông nghiệp) của Pháp cũng vượt trội Anh. Tuy nhiên việc làm chủ trên biển đã cho Anh một sức mạnh đáng kể, khiến cho Pháp khó có một nền hòa bình vững chắc, và Anh cũng có thể lập Liên minh chống Pháp bất cứ lúc nào.
Napoléon tiến lên phía Bắc để đối đầu với quân Nga và mưu toan chiếm thủ đô mới của Phổ là Königsberg (nay là Kaliningrad (Nga), một động tác chiến thuật trong trận ác chiến tại Eylau10 (Phổ) ngày 7 và 8 tháng 2 năm 1807, buộc Nga phải rút lui. Sau khi chiếm Dantzig (nay là Gdansk, Ba Lan), Napoléon cũng thắng trận quyết định ở Friedland ngày 14 tháng 6 năm 1807. Cuộc bại trận này buộc sa hoàng phải ký hòa ước Tilsit11 (Phổ) ngày 7 tháng 7 năm 1807. Mạnh vì chiếm đưuợc các đất đai mới của Phổ, Napoléon cho tái lập nước Ba Lan khi lập Đại công quốc Warsawa. Tại Hội nghị Erfurt (1808), Napoléon và Sa hoàng Aleksandr I ký một hiệp định, theo đó Nga sẽ buộc Thụy Điển tham gia vào cuộc Phong tỏa lục địa. Lời hứa này dẫn tới Chiến tranh Phần Lan (1808 - 1809) giữa Nga và Thụy Điển, và Nga thắng. Thụy Điển bị chia cắt thành 2 phần, ranh giới ở vịnh Bothnia, phần phía đông sát nhập vào Nga, tạo thành Đại công quốc Phần Lan.
Quân Pháp bị thua ở trận Bailén [13] (18 - 22 tháng 7 năm 1808). Napoléon phải chuyển quân sang Tây Ban Nha và đánh bại dễ dàng liên quân Tây Ban Nha - Anh, khiến đội quân viễn chinh của Anh phải rời bán đảo Iberia. Một cuộc tấn công từ sau lưng của Áo làm cho Napoléon bị bất ngờ và buộc phải bỏ bán đảo Iberia. Tình thế thay đổi, nhất là khi tướng Anh Arthur Wellesley lên nắm quyền chỉ huy quân Anh.
Cuộc đối đầu chuyển sang lãnh vực kinh tế: cuộc Phong tỏa lục địa đối kháng với cuộc Phong tỏa trên biển mà hai kẻ thù cố gắng củng cố. Trong lúc đó Anh phải chiến đấu chống Hoa Kỳ (cuộc chiến tranh năm 1812) và Pháp đánh nhau ở Tây Ban Nha. Cuộc xung đột trên bán đảo Iberia bắt đầu, khi Bồ Đào Nha tiếp tục buôn bán với Anh, bất chấp lệnh cấm của Pháp. Khi Pháp thua trận Bailén thì Tây Ban Nha không muốn liên minh với Pháp nữa, do đó Pháp phải nhanh chóng tiến chiếm Tây Ban Nha. Điều đó khiến Anh phải can thiệp. Áo thoáng thấy cơ hội lấy lại vương quyền trên nước Đức của mình đã bị bãi bỏ sau trận thua ở Austerlitz, nên quay lại đánh Pháp. Áo thắng vài trận vì quân của Davout quá yếu, chỉ có 170.000 người để bảo vệ vùng biên giới phía đông, trong khi vào năm 1790 thì số quân là 800.000. Áo cũng tấn công Đại công quốc Warszawa, nhưng bị thua trong trận Raszyn (19 tháng 4 năm 1809). Quân đội Ba Lan chiếm vùng Galicia phía tây. Napoléon chỉ huy quân đội phản công Áo và thắng một loạt trận nhỏ, nhưng tới trận lớn Aspern-Essling ngày 20 - 22 tháng 5 năm 1809, thì Napoléon bị thua về chiến thuật. Tuy nhiên Đại công tước Charles, chỉ huy quân Áo, đã mắc sai lầm, khi không truy kích quân Pháp. Sau đó Napoléon chuẩn bị vây hãm Wien bắt đầu từ tháng 7 năm 1809, ông ta thắng Áo ở trận Wagram (5 - 6 tháng 7 năm 1809).
Cuộc chiến với Liên minh thứ năm chấm dứt bằng hòa ước Schönbrunn ngày 24 tháng 10 năm 1809 do Áo xin đình chiến.
Năm 1810, Đế quốc Pháp mở rộng tới mức tối đa. Napoléon kết hôn với Marie-Louise, Công chúa Áo, để thiết lập Liên minh lâu dài với Áo và để có con thừa kế, mà người vợ trước - Joséphine de Beauharnais - không có. Ngoài Pháp, Napoléon cũng là vua Ý, người trung gian (và lãnh đạo) Liên bang Thụy Sĩ (Swiss Confederation), Liên bang sông Rhine. Viên đại sứ của ông ta tại Warszawa điều khiển không chính thức Đại công quốc Warszawa. Các đồng minh của ông ta là Tây Ban Nha (do người anh Joseph Bonaparte làm vua), công quốc Westphalen (do em út Jérôme Bonaparte cai trị), Vương quốc Napoli (em rể là thống chế Joachim Murat làm vua), công quốc Lucca (Ý) và Piombio (Ý) (do em rể Félix Baciocchi cai trị) cùng các nước cựu thù Phổ, Áo.
Sau đó, trên mặt trận Tây Ban Nha, liên quân Anh - Tây Ban Nha do tướng Wellesley chỉ huy cũng đánh bại quân Pháp trong trận Vitoria ngày 21 tháng 6 năm 1813 khiến Joseph Bonaparte và quân đội Pháp phải tháo chạy về Pháp, kết thúc việc chiếm đóng của Pháp trên bán đảo Iberia.
Hết thời hạn đình chiến, Napoléon tấn công và thắng trận Dresden (25 - 26 tháng 8 năm 1813), dù quân Liên minh đông hơn. Tuy nhiên tới trận Leipzig17, cũng gọi là Trận đánh Liên Quốc gia từ 16 tới 19 tháng 10 năm 1813 giữa 191.000 quân phe Pháp với 450.000 quân phe Liên minh (Đế quốc Áo, Vương quốc Phổ, Đế quốc Nga, Vương quốc Thụy Điển), thì Napoléon thua và buộc phải rút lui.
Dù thất bại ở một số trận, nhưng phe Liên minh ký Hiệp ước Chaumont ngày 8 tháng 3 năm 1814 (gồm Anh, Áo, Nga, Phổ), quyết tâm đánh bại Napoléon. Quân Liên minh tiến chiếm Paris ngày 30 tháng 3 năm 1814, do sự thông đồng của thống chế Marmont (rút lui, không chiến đấu với Liên quân). Tuy nhiên, Hoàng đế Napoléon vẫn hy vọng có thể tập hợp được 900.000 quân của mình đang ở Đức, Bỉ, Hà Lan cùng các tân binh, nhưng kế hoạch này không thực hiện được. Napoléon phải tuyên bố thoái vị ngày 6 tháng 4 năm 1814 tại Fontainebleau và bị đày tới làm hoàng đế đảo Elba. Các nước Liên minh thắng trận và Pháp họp Hội nghị Wien[18] từ 1 tháng 10 năm 1814 tới 9 tháng 6 năm 1815, quyết định trả lại biên giới của các nước châu Âu như cũ, trước khi có cuộc Cách mạng Pháp. Trước đó Liên minh và Pháp cũng đã ký Hiệp ước Paris ngày 30 tháng 5 năm 1815, trả cho Pháp biên giới nguyên trạng như trước ngày 1 tháng 1 năm 1792.
Napoléon lúc đó bị đày ở đảo Elba, nhưng ông ta trốn trở lại Pháp, nắm lại quyền hành từ vua Louis XVIII của Pháp. Các nước Liên minh tuyên bố đặt Napoléon ra ngoài vòng pháp luật và lập tức tập hợp một đạo quân để đánh gồm 700.000, dự trù sẽ tăng cường thêm 1 triệu nữa, cộng với sự hỗ trợ của 200.000 quân đồn trú. Trước khi Napoléon trở về, thì Pháp có một đội quân 90.000 người, Napoléon triệu tập thêm các cựu chiến binh, tổng cộng được 280.000 quân và ban bố sắc lệnh động viên 2,5 triệu quân.
Napoléon dẫn một đạo quân 124.000 người tấn công Bỉ để ngăn không cho quân Liên minh tập trung, hy vọng đẩy được quân Anh ra biển và buộc Phổ rút khỏi Liên minh. Cuộc tiến quân nhanh khiến cho Napoléon đạt được ý đồ gây bất ngờ cho địch, khiến Phổ phải rút lui trong hỗn loạn ở trận Ligny (Bỉ) ngày 16 tháng 6 năm 1815 (2 ngày trước trận quyết định Waterloo). Cùng ngày thống chế Pháp Michel Ney chận bắt các toán quân Anh do Wellesley gửi đi tiếp viện cho thống chế Phổ Blücher ở trận Quatre-Bras (gần Brussels). Tuy nhiên Thống chế Ney cũng không thể giải tỏa các vị trí bị vây hãm của Pháp. Napoléon đem đạo quân trừ bị lên phía Bắc, họp chung với Ney để truy kích Wellesley. Napoléon trao cho Thống chế Emmanuel de Grouchy giữ bên cánh hữu và ngăn không cho Phổ tập hợp lại quân sĩ, nhưng Grouchy không thể hoàn thành nhiệm vụ, dù đã đánh bại tướng Phổ Johann von Thielmann trong trận Wavre (Bỉ) ngày 18 - 19 tháng 6 năm 1815.
Khi bắt đầu trận quyết định ở Waterloo (Bỉ)21 ngày 18 tháng 6 năm 1815, Napoléon thúc quân tiến đánh Liên quân ở các vị trí cố thủ trong thung lũng này, nhưng tới cuối ngày quân Pháp vẫn không thể đẩy Liên quân Anh - Hannover ra khỏi các vị trí của họ. Hôm sau, khi quân Phổ tới tấn công cánh hữu của Pháp thì chiến thuật chia cắt quân Liên minh của Napoléon hoàn toàn thất bại và phải tháo chạy hỗn loạn.
Trở về Paris 3 ngày sau trận Waterloo, Napoléon buộc phải thoái vị lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815 và bị phe Liên minh đày ra đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương cho tới chết.
Hình ảnh quân Pháp rút khỏi Moscow năm 1812 được tái hiện trong bức tranh sơn dầu của cố họa sĩ January Suchodolski (1797–1875).
Chỉ di chuyển lực lượng từ điểm A tới điểm B thì chưa đủ, bạn phải lo đủ lương thực và nước uống cho binh lính khi họ hành quân. Bởi vậy, tài vận chuyển quân là một trong những nhiệm vụ quan trọng và phức tạp nhất mà mọi vị chỉ huy đều phải quán triệt nếu muốn giành chiến thắng.
Năm 1812, Napoleon đang trong men say chiến thắng vì các kẻ thù đều bị đánh bại. Đội quân vĩ đại gồm 400.000 người của ông được cho là bất khả chiến bại và Napoleon tự vẽ ra một chiến thắng nhanh chóng ở Nga.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng 6 tháng, lực lượng khổng lồ của ông đã giảm xuống còn một nhúm người rời rạc tả tơi, và cứ 20 binh sĩ thì có chưa đến một người sau này được gặp lại gia đình. Tại sao lại như thế?
Trong các chiến dịch trước đó ở Đông Âu, Napoleon đã giải quyết được vấn đề lương thực cho binh sĩ bằng cách cho phép họ "tận hưởng cuộc sống" - hoặc cướp bóc hoặc mua hết các nguồn cung trong khi tiến quân. Tuy nhiên, ý thức được rằng một lợi thế như vậy sẽ là điều không thể ở "những vùng đất khô cằn của Ukraine", Napoleon đã dự định cho mang theo lương thực thực phẩm.
Đây là một chiến dịch hậu cần với quy mô cực lớn, đòi hỏi một đoàn xe ngựa của không dưới 26 tiểu đoàn - 8 tiểu đoàn được trang bị 600 các xe ngựa vừa và nhỏ/mỗi tiểu đoàn, và số còn lại được trang bị 252 xe 4 ngựa kéo/mỗi tiểu đoàn với sức chuyên chở 1,36 tấn (tổng cộng là 9.300 xe ngựa).
Để đưa tất cả số xe ngựa này vào hoạt động và di chuyển các kỵ binh cùng pháo binh, Napoleon cần đến 250.000 con ngựa và rất nhiều cỏ mỗi ngày.
Và những con số trên không được tính đến.
Nếu Napoleon tới được Moscow trong 2 tháng, và chỉ với một nửa trong tổng số 400.000 binh sĩ lúc đầu, ông sẽ vẫn cần đến số quân nhu tổng cộng là 16.330 tấn - gần như gấp đôi khả năng chuyên chở các đoàn tiếp tế.
Thay vào đó, Napoleon tiến quân chỉ với các khẩu phần cho 24 ngày. Rõ ràng, ông đang mạo hiểm một chiến thắng nhanh chóng và một chiến dịch mà sẽ không thể kéo dài hơn 3 tuần. Đó là một điều mơ tưởng.
Người Nga đã quyết định dừng chiến đấu và phá sạch mùa màng cùng quân nhu khi rút đi, lừa Napoleon tiến sâu hơn vào những khu rừng, đầm lầy và những đồng cỏ mênh mông.
Trong khi đó, Đội quân Vĩ đại hao tổn 5.000 người mỗi ngày do tình trạng đào ngũ, bệnh tật và tự vẫn. Còn đàn ngựa tử vong với tốc độ 50 con/km, chủ yếu do ăn uống mất vệ sinh.
Chỉ có hai trận đánh lớn - ở Smolensk, nơi quân Nga thua trận, và ở Borodino, gần Moscow, một cuộc đọ sức đẫm máu dẫn tới thương vong ở cả hai phía là 40.000 người.
Khi phía Nga tiếp tục rút lui, Napoleon tiến vào Moscow vào giữa tháng 9 với sức mạnh chỉ còn 1/4 so với ban đầu. Tuy nhiên, Sa hoàng Alexander I nhất quyết không thương thuyết, và các vấn đề về hậu cần do chính sách "vườn không nhà trống" của ông gây ra đã khiến Napoleon gần như không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải rút lui.
Tuy nhiên, những khó khăn này mới chỉ là bắt đầu. Tiến vào Nga giữa tháng 6, và đã tiên liệu một chiến dịch chóng vánh, đàn ngựa của Nepoleon vẫn đóng móng mùa hè.
Nhưng mùa đông khắc nghiệt của nước Nga nhanh chóng kéo tới, và hậu cần ít ỏi đã khiến ông phải trả giá đắt. Móng mùa đông được trang bị với những chiếc đinh nhỏ để ngựa đi vững trên băng tuyết và không bị trượt ngã. Không có những chiếc móng đó, một con ngựa không thể kéo một chiếc xe lên hay xuống núi.
Vào mùa đông năm 1812 ở Nga, thực trạng này đã gây ra thảm họa cho lực lượng vốn đã suy giảm của Napoleon. Ngựa được đóng móng mùa hè sẽ bị "ngã xuống phía dưới dù chúng đang kéo vật gì", theo ngôn từ của Bernie Tidmarsh, một trong những người thợ đóng móng bậc thầy ở Anh. "Chúng sẽ không thể làm chủ được khi xuống cũng như khi lên núi", ông mô tả. "Kết quả cuối cùng thường là gãy chân".
Bị đói, rét và quân Nga tấn công, Đội quân Vĩ đại trở nên tan tác.
Vào thời điểm Napoleon bỏ mặc đội quân của mình cho số phận của họ ở Ba Lan - trở về Paris ngày 5/12 - quân số khi ấy còn chưa đầy 10.000 người đủ sức chiến đấu. Đó là một thảm họa mà Napoleon không bao giờ khắc phục được.
Hành trình rút quân dài dằng dặc từ Moscow của Napoleon đã đi vào lịch sử như một trong những thảm họa hậu cần khủng khiếp nhất của mọi thời đại. Không đủ ngựa để vận chuyển cho quãng đường cách xa 2.400km, đội quân của ông không còn cơ hội.
Tuy nhiên, nếu chuẩn bị tốt về hậu cần, một vị tướng có thể tranh thủ được lợi thế trước kẻ thù.
Có lẽ, ví dụ gần nhất của điều này là trong thời kỳ Chiến tranh Pháp - Phổ 1870-71, khi tư lệnh Phổ Helmuth von Moltke tận dụng năng lực của các tuyến đường sắt Đức để tập trung lực lượng trước khi Pháp có thể làm điều đó. Giành được thế chủ động, ông không từ bỏ nó cho đến khi Phổ thắng lợi, một chiến thắng đã mở ra sự thống nhất nước Đức.
Tuy thế, ngựa vẫn là phương tiện chủ chốt để vận tải binh lính và quân nhu qua các địa thế hiểm trở cho đến khi xe Jeep được quân đội Mỹ đưa vào sử dụng thời kỳ Thế chiến II. Loại xe này rất bền, chắc và linh hoạt. Chúng có thể được sử dụng cho rất nhiều mục đích, có thể vận chuyển người bị thương hoặc đồ tiếp tế. Nhờ những bánh xe đặc biệt, chúng thậm chí còn có thể chạy trên đường tàu.
Các cuộc chiến tranh của Napoléon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Chiến tranh Napoleón đã dẫn đến sự tan rã của Đế quốc La Mã Thần thánh và gieo mầm cho chủ nghĩa dân tộc hình thành tại Đức và Ý, mà sau này đã giúp dẫn đến việc thống nhất hai quốc gia này vào giữa thế kỷ 19. Đồng thời, đế quốc khắp hoàn cầu của Tây Ban Nha cũng bắt đầu tan vỡ khi chính quốc Tây Ban Nha bị nước Pháp chiếm đóng, làm suy yếu quyền kiểm soát của nó đối với các thuộc địa, mở màn cho một loạt các cuộc chiến tranh giành độc lập tại những nước châu Mỹ. Và một hệ quả trực tiếp khác của chiến tranh Napoleon là Đế quốc Anh đã trở thành cường quốc mạnh nhất thế giới trong một thế kỷ tiếp sau đó,[1] giai đoạn được gọi là Nền hòa bình Anh.
Cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí về thời điểm kết thúc của cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và bắt đầu của Chiến tranh Napoléon. Ban đầu người ta cho rằng thời điểm đó là vào ngày 9 tháng 11 năm 1799, khi tướng Bonaparte lên nắm quyền lãnh đạo nước Pháp sau cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, nhưng đa số đều quan niệm các cuộc chiến của cuộc Cách mạng Pháp kéo dài tới năm 1802 và lời tuyên chiến giữa Pháp và Anh ngày 18 tháng 5 năm 1803 - sau khi một thời gian hòa bình ngắn ngủi tiếp theo Hòa ước Amiens năm 1802 - là điểm xuất phát của các cuộc chiến tranh Napoléon. Các cuộc chiến này chấm dứt sau thất bại cuối cùng của Napoléon tại trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815 và Hòa ước Paris thứ hai ký ngày 20 tháng 11 cùng năm đó.
Tên gọi
Có người gọi các cuộc chiến này là Các cuộc chiến tranh Cách mạng và Đế chế (Guerres de la Révolution et de l'Empire) chủ yếu vì coi chúng là sự tiếp tục của các cuộc chiến bảo vệ Cuộc cách mạng Pháp, do các vương quốc châu Âu liên kết chống lại Pháp trong Liên minh thứ nhất và thứ hai. Tuy nhiên một số người khác lại cho đây là các cuộc chiến tranh xâm lược không thể chối cãi, chẳng hạn như cuộc chiến tranh Bán đảo tại Tây Ban Nha trong các năm 1808-1814. Các sử gia châu Âu đôi khi còn gọi thời kỳ chiến tranh liên tục từ ngày 20 tháng 4 năm 1792, khi Pháp tuyên chiến với Áo, tới ngày 20 tháng 11 năm 1815 là "Cuộc đại chiến", cho đến khi tên gọi này chuyển sang cho cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, và thay thế bằng Cuộc đại chiến Pháp - Grande guerre francaise. Cuối cùng đôi khi người ta cũng coi các cuộc chiến này là giai đoạn cuối của Cuộc chiến tranh 100 năm lần thứ ba (Troisième guerre de Cent ans) giữa Pháp và Anh.Các trận chiến tranh với Liên minh thứ hai1
Sau mưu toan nghiền nát Cuộc cách mạng Pháp của Liên minh thứ nhất gồm Anh, Áo, Phổ, Tây Ban Nha và một số nước nhỏ (1792-1797), phe Liên minh bị thất bại bởi cuộc tổng động viên của Pháp (300.000 người) với việc cải cách quân đội bởi tướng Lazare Nicolas Marguerite Carnot và chiến thuật chiến tranh toàn diện. Nước Pháp thắng trận đã sát nhập vùng Rheinland và vùng Bỉ-Hà Lan-Luxembourg thuộc Tây Ban Nha vào Pháp. Việc chinh phục Cộng hòa Hà Lan (cũng gọi là "7 tỉnh hợp nhất", tuyên chiến với Pháp năm 1793) và chuyển thành nước Cộng hòa Batavia bởi Hiệp ước La Haye ngày 19.01.1795, đến trước việc từ bỏ Phổ rồi Tây Ban Nha trong cùng một năm. Cuối cùng là trận chiến thắng lợi của vị tướng trẻ Napoléon Bonaparte tại Ý (1796-1797), trước hết tách vùng Piemonte (của Ý) và sau đó các nước dưới quyền Giáo hoàng ra khỏi phe Liên minh, cuối cùng đã buộc Áo phải ký hiệp ước Campo-Formio[2] (17 tháng 10 năm 1797) chấm dứt Liên minh.Vương quốc Anh - cường quốc chính còn chiến tranh với Pháp - tài trợ một Liên minh thứ hai gồm Anh, Nga, Áo, Đế quốc Ottoman, Thụy Điển, Vương quốc Lưỡng Sicilia, Đế quốc La mã thần thánh. Chính phủ Pháp thời đó vừa tham nhũng vừa bất ổn, đã không thể chống lại các cuộc đảo chính, cũng không thể đối mặt với sự đe dọa từ bên ngoài, thiếu các bộ trưởng giỏi như Carnot, hoặc tướng tài như Bonaparte (vì sang Ai cập). Quân Pháp bị quân của Liên minh dưới sự chỉ huy cuả tướng Nga Aleksandr Vasilyevich Suvorov đánh bại.
Bonaparte trao quyền chỉ huy quân đội ở Ai Cập cho tướng Jean Baptiste Kléber, trở về Pháp làm một cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng sương mù (9 tháng 11 năm 1799), lật đổ Ban đốc chính (Directoire) và lên nắm quyền. Sự đe dọa cấp bách nhất là cuộc tấn công của Áo cùng một lúc tại 2 mặt trận ở Ý và Đức. Viên Đệ nhất tổng tài (Napoléon) tổ chức một đạo quân gọi là trừ bị, vượt qua dãy núi Alps sang Ý. Ngày 18 tháng 6 năm 1800 Napoléon thắng trận Marengo (Ý) và ngày 3 tháng 12 năm 1800, tướng Jean Victor Marie Moreau cũng thắng quân Áo tại Hohenlinden (Đức). Hòa ước Lunéville[3] được ký ngày 9 tháng 2 năm 1801 giữa Pháp và Áo.
Chỉ còn Anh là vẫn chống lại Pháp. Anh có một hạm đội mạnh, làm chủ trên biển. Sau một chiến thắng trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ở mũi Saint Vincent (1797), rồi trận diệt hạm đội Pháp ở Aboukir (Ai Cập) ngày 1 tháng 8 năm 1798, hạm đội Anh tiếp tục đe dọa Quần đảo Antilles thuộc Pháp, và họ đủ sức kết hợp các cường quốc ở lục địa châu Âu chống lại Pháp. Quân đội Áo cũng vậy, mặc dù bị nhiều thất bại, vẫn còn là một mối đe dọa đối với Pháp.
Hòa ước Amiens
Hòa ước Amiens[4] được ký ngày 25 tháng 3 năm 1802 giữa một bên là Anh và bên kia là Pháp, đại diện cho phe Liên minh (gồm Pháp, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Na Uy, Cộng hòa Batavia), chấm dứt chiến tranh giữa phe Pháp và Liên minh thứ hai. Nền hòa bình coi như không lâu dài, vì cả hai bên đều không hài lòng. Ngày 18 tháng 5 năm 1803, sự thù địch lại tái diễn, nhưng mục tiêu của cuộc xung đột lần này chuyển từ việc tái thiết lập chế độ quân chủ ở Pháp sang cuộc đấu tranh chống Napoléon, khi ông tuyên bố lên làm hoàng đế Pháp ngày 28 tháng 4 năm 1804 và sau đó lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1804.Cuộc chiến trên biển
Hải quân Anh đại thắng trong trận Trafalgar.
Khi sự thù hận tái diễn vào năm 1805, thì vương quốc Anh làm chủ trên biển bằng chiến thắng quyết định trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ở Trafalgar (tây nam Tây Ban Nha) ngày 21.10.1805 và dễ dàng đẩy lui đoàn quân viễn chinh của Pháp tiến sang Ireland. Tuy nhiên, các trận hải chiến vẫn tiếp tục. Một trận hải chiến ở vùng Caribbe có hậu quả trực tiếp và tức thời đối với diễn tiến của cuộc chiến, vì đã đẩy Napoléon quay về lục địa châu Âu.
Các trận chiến với Liên minh thứ ba 6
Tháng 4 năm 1805, Anh và Nga ký một hiệp ước nhằm đẩy Pháp ra khỏi Hà Lan và Thụy Sĩ. Sau khi sát nhập Genève vào Pháp và Napoléon tuyên bố mình làm vua nước Ý, thì Áo cũng quay sang theo phe Liên minh. Ngày 9 tháng 8 năm 1805 Vương quốc Napoli và Thụy Điển cũng gia nhập phe Liên minh thứ ba (gồm Anh, Nga, Áo, Thụy Điển, Vương quốc Napoli).Phe đồng minh của Pháp gồm có Tây Ban Nha, Ý, Cộng hòa Bayern, công quốc Baden và Württemberg. Napoléon chuẩn bị tập trung tại Boulogne (Pháp) để xâm chiếm Anh, cuộc xâm chiếm mà Pháp cần phải làm chủ được eo biển Manche. Ông ta lập một kế hoạch phức tạp để lôi kéo hạm đội Anh về phía các thuộc địa ở vùng Tây Ấn (Caribbe). Quân Áo xâm chiếm CH Bayern với đội quân gồm 70.000 người do tướng Karl Mack chỉ huy. Napoléon lập tức quay về lục địa châu Âu. Cuối tháng 7 năm 1805, Đại quân của Pháp chia ra 7 mũi lao vào quân Áo. Tại trận Ulm (Đức) từ 25 tháng 9 tới 20 tháng 10 năm 1805, Napoléon vây hãm tướng Karl Mack, khiến sau đó Mack phải đầu hàng. Cùng lúc đó đội quân Áo ở phía nam dãy núi Alpes do Công tước Charles đối đầu với thống chế Pháp André Masséna cũng không mang lại kết quả. Napoléon chiếm Wien. Nhưng đô đốc Pháp Pierre-Charles Villeneuve thất trận ở mũi Finisterre (22 tháng 7 năm 1805) và cố thủ tại Cadiz (Tây Ban Nha). Hạm đội này sau đó lại thua trận Trafalgar (21 tháng 10 năm 1805). Cuộc chiến quyết định này đã kết thúc ý đồ xâm chiếm nước Anh.
Dù gặp khó khăn vì các tuyến đường tiếp tế quá kéo dài, Napoléon vẫn thắng một trận chiến lớn trước liên quân Áo - Nga đông hơn do Sa hoàng Aleksandr I của Nga, tướng Nga Mikhail Kutuzov và hoàng đế Franz II của Áo chỉ huy vào ngày 2 thág 12 năm 1805 tại trận Austerlitz[7] (nay là Slavkov, Cộng hòa Séc). Liên quân Áo - Nga mất 25.000 quân, trong khi Pháp chỉ mất 7.000. Đây được coi là thắng lợi lớn nhất của Napoléon. Áo phải ký hòa ước Pressburg (nay là Bratislava, Slovakia) ngày 26 tháng 12 năm 1805, nhượng Venezia cho Ý (do Napoléon làm vua) và vùng Tyrol cho Vương quốc Bayern. Liên minh thứ ba giải tán.
Các trận chiến với Liên minh thứ tư8
Liên minh thứ tư thành hình chỉ sau Liên minh thứ ba vài tháng, gồm Anh, Nga, Phổ, Thụy Điển và bang tự do Sachsen. Vào ngày 12 tháng 7 năm 1806, Napoléon lập Liên bang Rhein (Rheinbund) gồm các bang trong Đế quốc La Mã thần thánh và Đức, các bang nhỏ thì nhập vào đất công tước hoặc vào vương quốc lớn hơn. (Các CH Bayern và Sachsen được Napoléon lập thành các vương quốc). Nước Phổ không chấp nhận ưu thế của Pháp bành trướng tới tận cửa ngõ của mình. Ngày 9 tháng 8 năm 1806, do Anh thúc đẩy, vua Phổ Friedrich Wilhelm III ra lệnh tổng động viên để gây chiến với Pháp. Khi đó quân đội Nga còn ở xa Phổ. Tháng 9 năm 1806 Napoléon tập trung khoảng 160.000 quân ở vùng sông Rhine rồi tiến tới Phổ (sau đó còn thêm quân tiếp viện). Cuộc tiến quân nhanh của Pháp đã làm xẹp ý chí chiến đấu của quân đội Phổ, gồm 250.000 người.Quả nhiên Napoléon và thống chế Louis-Nicolas Davout đã đánh bại quân Phổ ở các trận Jena và Auerstedt ngày 14 tháng 10 năm 1806. Quân Phổ bị chết 25.000 người, 150.000 người bị bắt làm tù binh, Pháp tịch thu 100.000 súng trường và 4.000 súng đại bác. Ngày 27 tháng 10 năm 1806, Napoléon vào Berlin. Ông ta viếng mộ Friedrich II của Phổ và tuyên bố trước các tướng lãnh Pháp: "Nếu ông ta còn sống thì ngày hôm nay chúng ta không thể tới đây". Tính chung Napoléon chỉ mất 19 ngày, từ khi bắt đầu trận chiến tới khi vào Berlin. Sau thất bại này, Phổ ký hiệp ước đình chiến tại Charlottenburg (Berlin). Tại Berlin, Napoléon ban bố một loạt sắc lệnh, có hiệu lực từ 1 tháng 11 năm 1806, chủ trương một cuộc Phong tỏa lục địa9, cấm mọi việc buôn bán với Anh trong các nước chịu ảnh hưởng của Pháp. Quân đội Anh thời đó đã giảm bớt còn khoảng 220.000 người, đối với Đại quân Pháp có lúc trên 1 triệu quân, kể cả quân các nước đồng minh và vệ binh. Trái lại hạm đội Anh gây khó cho việc buôn bán hàng hải của Pháp, nhưng không gây trở ngại cho việc buôn bán trên lục địa, và cũng không đe dọa lãnh thổ Pháp. Hơn nữa, dân số và việc sản xuất (kỹ nghệ, nông nghiệp) của Pháp cũng vượt trội Anh. Tuy nhiên việc làm chủ trên biển đã cho Anh một sức mạnh đáng kể, khiến cho Pháp khó có một nền hòa bình vững chắc, và Anh cũng có thể lập Liên minh chống Pháp bất cứ lúc nào.
Napoléon tiến lên phía Bắc để đối đầu với quân Nga và mưu toan chiếm thủ đô mới của Phổ là Königsberg (nay là Kaliningrad (Nga), một động tác chiến thuật trong trận ác chiến tại Eylau10 (Phổ) ngày 7 và 8 tháng 2 năm 1807, buộc Nga phải rút lui. Sau khi chiếm Dantzig (nay là Gdansk, Ba Lan), Napoléon cũng thắng trận quyết định ở Friedland ngày 14 tháng 6 năm 1807. Cuộc bại trận này buộc sa hoàng phải ký hòa ước Tilsit11 (Phổ) ngày 7 tháng 7 năm 1807. Mạnh vì chiếm đưuợc các đất đai mới của Phổ, Napoléon cho tái lập nước Ba Lan khi lập Đại công quốc Warsawa. Tại Hội nghị Erfurt (1808), Napoléon và Sa hoàng Aleksandr I ký một hiệp định, theo đó Nga sẽ buộc Thụy Điển tham gia vào cuộc Phong tỏa lục địa. Lời hứa này dẫn tới Chiến tranh Phần Lan (1808 - 1809) giữa Nga và Thụy Điển, và Nga thắng. Thụy Điển bị chia cắt thành 2 phần, ranh giới ở vịnh Bothnia, phần phía đông sát nhập vào Nga, tạo thành Đại công quốc Phần Lan.
Các trận chiến với Liên minh thứ năm12
Cuộc chiến Tây Ban Nha
Cuộc nổi dậy của dân chúng Tây Ban Nha chống sự chiếm đóng của Pháp ngày 2 tháng 5 năm 1808 đã gây ra một cuộc chiến tại đây, và dẫn tới việc trục xuất vua Joseph Banaparte (anh của Napoléon, làm vua Tây Ban Nha) vào năm 1814, thay bằng vua Fernando VII của Tây Ban Nha, sau đó là việc xâm nhập miền nam Pháp.Quân Pháp bị thua ở trận Bailén [13] (18 - 22 tháng 7 năm 1808). Napoléon phải chuyển quân sang Tây Ban Nha và đánh bại dễ dàng liên quân Tây Ban Nha - Anh, khiến đội quân viễn chinh của Anh phải rời bán đảo Iberia. Một cuộc tấn công từ sau lưng của Áo làm cho Napoléon bị bất ngờ và buộc phải bỏ bán đảo Iberia. Tình thế thay đổi, nhất là khi tướng Anh Arthur Wellesley lên nắm quyền chỉ huy quân Anh.
Liên minh thứ năm
Liên minh thứ năm được thành lập năm 1809 gồm Anh và Áo, khi Anh đã chống Pháp tại bán đảo Iberia, và chưa huy động các lực lượng quan trọng. Anh cũng có các chiến thắng nhỏ tại các thuộc địa của Pháp và ở trên biển. Trên bộ, họ chỉ thử làm cuộc tiến quân Walcheren[14] với 40.000 người tới vùng Zeeland (Hà Lan) do Pháp kiểm soát từ 30 tháng 7 tới 10 tháng 12 năm 1809.Cuộc đối đầu chuyển sang lãnh vực kinh tế: cuộc Phong tỏa lục địa đối kháng với cuộc Phong tỏa trên biển mà hai kẻ thù cố gắng củng cố. Trong lúc đó Anh phải chiến đấu chống Hoa Kỳ (cuộc chiến tranh năm 1812) và Pháp đánh nhau ở Tây Ban Nha. Cuộc xung đột trên bán đảo Iberia bắt đầu, khi Bồ Đào Nha tiếp tục buôn bán với Anh, bất chấp lệnh cấm của Pháp. Khi Pháp thua trận Bailén thì Tây Ban Nha không muốn liên minh với Pháp nữa, do đó Pháp phải nhanh chóng tiến chiếm Tây Ban Nha. Điều đó khiến Anh phải can thiệp. Áo thoáng thấy cơ hội lấy lại vương quyền trên nước Đức của mình đã bị bãi bỏ sau trận thua ở Austerlitz, nên quay lại đánh Pháp. Áo thắng vài trận vì quân của Davout quá yếu, chỉ có 170.000 người để bảo vệ vùng biên giới phía đông, trong khi vào năm 1790 thì số quân là 800.000. Áo cũng tấn công Đại công quốc Warszawa, nhưng bị thua trong trận Raszyn (19 tháng 4 năm 1809). Quân đội Ba Lan chiếm vùng Galicia phía tây. Napoléon chỉ huy quân đội phản công Áo và thắng một loạt trận nhỏ, nhưng tới trận lớn Aspern-Essling ngày 20 - 22 tháng 5 năm 1809, thì Napoléon bị thua về chiến thuật. Tuy nhiên Đại công tước Charles, chỉ huy quân Áo, đã mắc sai lầm, khi không truy kích quân Pháp. Sau đó Napoléon chuẩn bị vây hãm Wien bắt đầu từ tháng 7 năm 1809, ông ta thắng Áo ở trận Wagram (5 - 6 tháng 7 năm 1809).
Cuộc chiến với Liên minh thứ năm chấm dứt bằng hòa ước Schönbrunn ngày 24 tháng 10 năm 1809 do Áo xin đình chiến.
Năm 1810, Đế quốc Pháp mở rộng tới mức tối đa. Napoléon kết hôn với Marie-Louise, Công chúa Áo, để thiết lập Liên minh lâu dài với Áo và để có con thừa kế, mà người vợ trước - Joséphine de Beauharnais - không có. Ngoài Pháp, Napoléon cũng là vua Ý, người trung gian (và lãnh đạo) Liên bang Thụy Sĩ (Swiss Confederation), Liên bang sông Rhine. Viên đại sứ của ông ta tại Warszawa điều khiển không chính thức Đại công quốc Warszawa. Các đồng minh của ông ta là Tây Ban Nha (do người anh Joseph Bonaparte làm vua), công quốc Westphalen (do em út Jérôme Bonaparte cai trị), Vương quốc Napoli (em rể là thống chế Joachim Murat làm vua), công quốc Lucca (Ý) và Piombio (Ý) (do em rể Félix Baciocchi cai trị) cùng các nước cựu thù Phổ, Áo.
Các trận chiến với Liên minh thứ sáu 15
Liên minh thứ sáu gồm các vương quốc Anh, Nga, Phổ rồi Thụy Điển, Áo và CH Bayern (từ 1813). Bên phía Pháp gồm Pháp, Đại công quốc Warsawa, Ý, Vương quốc Napoli, Liên bang sông Rhein, Sachsen và CH Bayern (tới 1813).Trận chiến tại Nga
Năm 1812 Napoléon xâm lấn Nga để buộc sa hoàng phải tuân thủ việc Phong tỏa lục địa và không được xâm chiếm Ba Lan. Đại quân Pháp gồm 650.000 người, trong đó 270.000 là quân Pháp, vượt qua sông Nemen ngày 23 tháng 6 năm 1812. Nga tuyên bố cuộc đại chiến vệ quốc và dùng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến (đốt sạch trước khi rút lui). Hai bên đối đầu nhau trong trận Borodino[16] (ngoại ô Moskva) ngày 7 tháng 9 năm 1812, một trận chiến đẫm máu và buộc Nga phải rút lui. Quân Pháp vào Moskva ngày 14 tháng 9 năm 1812, nhưng Sa hoàng Aleksandr I không chịu thương thuyết. Napoléon cũng không hy vọng chiến thắng, đành phải rút khỏi Nga. Đợt chiến trận tại Nga này khiến phe Pháp thiệt mất 370.000 người (kể cả bị chết vì dịch bệnh và rét lạnh, ngoài các trận đánh nhau) và 200.000 bị bắt làm tù binh. Sau trận thua ở Berezina từ 26 tới 29 tháng 12 năm 1812, quân Pháp chỉ còn khoảng 90.000. Thêm nữa, lúc đó có tin ở Paris tướng Claude François de Malet định làm một cuộc đảo chính, nên Napoléon phải rời đạo quân, gấp rút trở về Pháp. Bên phía Nga cũng bị mất 400.000 quân.Sau đó, trên mặt trận Tây Ban Nha, liên quân Anh - Tây Ban Nha do tướng Wellesley chỉ huy cũng đánh bại quân Pháp trong trận Vitoria ngày 21 tháng 6 năm 1813 khiến Joseph Bonaparte và quân đội Pháp phải tháo chạy về Pháp, kết thúc việc chiếm đóng của Pháp trên bán đảo Iberia.
[sửa] Trận chiến ở Đức
Nước Phổ vào cuộc, khi thấy có cơ hội để thắng Pháp. Napoléon tái lập một đạo quân gồm các đội quân thoát nạn ở nước Nga trở về và mộ thêm được tổng cộng khoảng 400.000 người. Liên quân Nga - Phổ đối đầu với liên quân Pháp ở trận Lützen ngày 2 tháng 5 năm 1813 và trận Bautzen ngày 20 và 21 tháng 5 năm 1813, bị thua và thiệt mất 40.000 quân. Cuộc đình chiến được ký ngày 4 tháng 6 và kéo dài tới ngày 13 tháng 8 năm 1813. Trong thời gian này, hai phe đều tìm cách tăng cường lực lượng. Phe Liên minh thuyết phục nước Áo tham gia chống Pháp. Phe Liên minh lập 2 đạo quân khoảng 800.000 người, cùng với một đội quân trừ bị chiến lược khoảng 350.000. Về phần mình, Napoléon tập hợp được khoảng 650.000 quân ở Đức, trong đó chỉ có 250.000 dưới quyền chỉ huy trực tiếp, 120.000 dưới quyền chỉ huy của Thống chế Nicolas Oudinot và 30.000 do Thống chế Davout chỉ huy, phần còn lại là của Liên bang Rhein, CH Sachsen và Bayern. Vương quốc Napoli của Murat và vương quốc Ý của Eugènge de Beauharnais có một đạo quân hỗn hợp khoảng 100.000 cộng thêm 150.000 quân rút khỏi Tây ban nha. Tổng cộng phe Pháp có khoảng 900.000 quân, nhưng các lính Đức trong phe Pháp kém khả năng chiến đấu và có xu hướng muốn đào tẩu sang phe quân Liên minh.Hết thời hạn đình chiến, Napoléon tấn công và thắng trận Dresden (25 - 26 tháng 8 năm 1813), dù quân Liên minh đông hơn. Tuy nhiên tới trận Leipzig17, cũng gọi là Trận đánh Liên Quốc gia từ 16 tới 19 tháng 10 năm 1813 giữa 191.000 quân phe Pháp với 450.000 quân phe Liên minh (Đế quốc Áo, Vương quốc Phổ, Đế quốc Nga, Vương quốc Thụy Điển), thì Napoléon thua và buộc phải rút lui.
Trận chiến ở Pháp
Các nước Liên minh muốn chấm dứt 20 năm chiến tranh và đánh bại Napoléon mà họ gọi là "kẻ tiếm quyền". Quân Liên minh gồm 500.000 người tiến vào Pháp, trong khi Napoléon chỉ có thể huy động được một đạo quân nhỏ gồm 70.000 người. Tuy nhiên quân Pháp đã chống trả quyết liệt quân Liên minh bị chia cắt, ở từng tấc đất, đặc biệt ở các trận Champaubert (10 tháng 2 năm 1814) giữa Pháp và liên quân Áo - Nga, trận Montmirail (11 tháng 2 năm 1814) giữa Pháp với Liên quân Áo - Nga, trận Mormant (17 tháng 2 năm 1814) giữa Pháp vói Liên quân Nga - Wurtemberg, và trận Montereau (18 tháng 2 năm 1814) chống Liên quân Áo - Wutemberg.Dù thất bại ở một số trận, nhưng phe Liên minh ký Hiệp ước Chaumont ngày 8 tháng 3 năm 1814 (gồm Anh, Áo, Nga, Phổ), quyết tâm đánh bại Napoléon. Quân Liên minh tiến chiếm Paris ngày 30 tháng 3 năm 1814, do sự thông đồng của thống chế Marmont (rút lui, không chiến đấu với Liên quân). Tuy nhiên, Hoàng đế Napoléon vẫn hy vọng có thể tập hợp được 900.000 quân của mình đang ở Đức, Bỉ, Hà Lan cùng các tân binh, nhưng kế hoạch này không thực hiện được. Napoléon phải tuyên bố thoái vị ngày 6 tháng 4 năm 1814 tại Fontainebleau và bị đày tới làm hoàng đế đảo Elba. Các nước Liên minh thắng trận và Pháp họp Hội nghị Wien[18] từ 1 tháng 10 năm 1814 tới 9 tháng 6 năm 1815, quyết định trả lại biên giới của các nước châu Âu như cũ, trước khi có cuộc Cách mạng Pháp. Trước đó Liên minh và Pháp cũng đã ký Hiệp ước Paris ngày 30 tháng 5 năm 1815, trả cho Pháp biên giới nguyên trạng như trước ngày 1 tháng 1 năm 1792.
Các trận chiến với Liên minh thứ bảy 19
Thời kỳ chiến tranh với Liên minh thứ bảy gồm vương quốc Anh, Nga, Áo, Phổ, Thụy Điển, Hà Lan và một số nước nhỏ ở Đức, thường được gọi là Thời kỳ 100 ngày[20], kể từ 1 tháng 3 năm 1815 (khi Napoléon trở về Pháp) tới 18 tháng 6 năm 1815 (ngày Pháp thua trận Waterloo).Napoléon lúc đó bị đày ở đảo Elba, nhưng ông ta trốn trở lại Pháp, nắm lại quyền hành từ vua Louis XVIII của Pháp. Các nước Liên minh tuyên bố đặt Napoléon ra ngoài vòng pháp luật và lập tức tập hợp một đạo quân để đánh gồm 700.000, dự trù sẽ tăng cường thêm 1 triệu nữa, cộng với sự hỗ trợ của 200.000 quân đồn trú. Trước khi Napoléon trở về, thì Pháp có một đội quân 90.000 người, Napoléon triệu tập thêm các cựu chiến binh, tổng cộng được 280.000 quân và ban bố sắc lệnh động viên 2,5 triệu quân.
Napoléon dẫn một đạo quân 124.000 người tấn công Bỉ để ngăn không cho quân Liên minh tập trung, hy vọng đẩy được quân Anh ra biển và buộc Phổ rút khỏi Liên minh. Cuộc tiến quân nhanh khiến cho Napoléon đạt được ý đồ gây bất ngờ cho địch, khiến Phổ phải rút lui trong hỗn loạn ở trận Ligny (Bỉ) ngày 16 tháng 6 năm 1815 (2 ngày trước trận quyết định Waterloo). Cùng ngày thống chế Pháp Michel Ney chận bắt các toán quân Anh do Wellesley gửi đi tiếp viện cho thống chế Phổ Blücher ở trận Quatre-Bras (gần Brussels). Tuy nhiên Thống chế Ney cũng không thể giải tỏa các vị trí bị vây hãm của Pháp. Napoléon đem đạo quân trừ bị lên phía Bắc, họp chung với Ney để truy kích Wellesley. Napoléon trao cho Thống chế Emmanuel de Grouchy giữ bên cánh hữu và ngăn không cho Phổ tập hợp lại quân sĩ, nhưng Grouchy không thể hoàn thành nhiệm vụ, dù đã đánh bại tướng Phổ Johann von Thielmann trong trận Wavre (Bỉ) ngày 18 - 19 tháng 6 năm 1815.
Khi bắt đầu trận quyết định ở Waterloo (Bỉ)21 ngày 18 tháng 6 năm 1815, Napoléon thúc quân tiến đánh Liên quân ở các vị trí cố thủ trong thung lũng này, nhưng tới cuối ngày quân Pháp vẫn không thể đẩy Liên quân Anh - Hannover ra khỏi các vị trí của họ. Hôm sau, khi quân Phổ tới tấn công cánh hữu của Pháp thì chiến thuật chia cắt quân Liên minh của Napoléon hoàn toàn thất bại và phải tháo chạy hỗn loạn.
Trở về Paris 3 ngày sau trận Waterloo, Napoléon buộc phải thoái vị lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815 và bị phe Liên minh đày ra đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương cho tới chết.
Các hậu quả của các cuộc chiến tranh này
Các cuộc chiến tranh của Napoléon đã có những hậu quả lớn lao trên toàn thế giới, đặc biệt ở lục địa châu Âu:- Pháp không còn là cường quốc thống trị châu Âu, như dưới thời vua Louis XIV của Pháp
- Trong nhiều nước châu Âu, việc du nhập các lý tưởng và các tiến bộ của cuộc Cách mạng Pháp (dân chủ, bãi bỏ các đặc quyền của giới tăng lữ và quí tộc, bãi bỏ việc tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) đã để lại dấu ấn lâu dài. Các vua ở châu Âu khó tái lập chế độ chuyên chế thời tiền Cách mạng Pháp và đôi khi buộc phải áp dụng một số cải cách (vd. Bộ luật dân sự Pháp thời Napoléon, được một số nước áp dụng lâu, hoặc ảnh hưởng tới luật của một số nước).
- Một phong trào mới và mạnh đã xuất hiện: chủ nghĩa dân tộc đã làm thay đổi tiến trình lịch sử châu Âu, là sức mạnh giết chết các đế quốc. Bản đồ châu Âu được vẽ lại hoàn toàn trong 100 năm sau các cuộc chiến này.
- Cuộc chiến ở Tây Ban Nha đã hủy hoại quân đội (hạm đội và lục quân) nước này, tình trạng trầm trọng thêm vì các cuộc cách mạng xẩy ra ở các thuộc địa của Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Tới năm 1825 hầu như toàn bộ thuộc địa của Tây Ban Nha hoặc đã độc lập hoặc đã sát nhập vào Hoa Kỳ (các tiểu bang Florida, Louisiana) hoặc vào Vương quốc Anh (Trinidad) hay Haiti (Saint Domingue).
- Vương quốc Anh trở thành cường quốc bá chủ thế giới trên đất liền và trên biển.
- Việc Pháp chiếm đóng Hà Lan (trong thời kỳ chiến tranh) đã cho phép Pháp chiếm các thuộc địa của nước này: Tích Lan (nay là Sri Lanka), Malacca, Nam Phi, Guyana...
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)