Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

chỉnh lại lịch thi

Lịch thi 02 môn sau được dời lại 01 tuần:
T4, 20/07/2011 : Kế toán TC2
T6, 22/07/2011 : Marketing

Những bài học nhãn tiền từ đập Tam Hiệp

Peter Bosshard, Giám đốc chính sách của tổ chức Sông ngòi Thế giới, người đã giám sát quá trình xây dựng và vận hành đập Tam Hiệp từ những năm 1990, phân tích những bài học về môi trường, xã hội, kinh tế rút ra từ dự án thuỷ điện tham vọng nhất thế giới của Trung Quốc, có giá trị đối với bất cứ quốc gia nào đang đau đầu về sự lựa chọn thuỷ điện.

Tam Hiệp để lại những hậu quả nghiêm trọng
Một nửa số đập thủy điện lớn của thế giới hiện nằm trên lãnh thổ Trung Quốc. Trong vòng 10 năm qua, các công ty Trung Quốc đã chinh phục thành công thị trường thế giới về các dự án đập thủy điện. Với đập Kamchay và 5 đập khác đang trong quá trình xây dựng, các công ty Trung Quốc cũng đang thống trị trong lĩnh vực thủy điện của Campuchia.
Rất nhiều công ty xây dựng đập của Trung Quốc đã mua lại công nghệ của dự án đập Tam Hiệp khổng lồ trên sông Dương Tử. Các công ty như Sinohydro - chủ nhân của đập Kamchay - thường nhắc đến đập trên sông Dương Tử như một minh chứng cho sự xuất sắc về mặt kĩ thuật. Giống như nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài, Thủ tướng Campuchia Hun Sen cũng ca ngợi dự án này khi ông tới thăm vào năm 2004. Một động thái gây ngạc nhiên là Chính phủ Trung Quốc vừa thừa nhận dự án đập Tam Hiệp gây ra những tác động xã hội, môi trường và địa chất hết sức nghiêm trọng. Vậy những bài học từ kinh nghiệm này là gì?
Với công suất 18.200 MW điện, đập Tam Hiệp là dự án thủy điện lớn nhất thế giới. Dù đây là một công trình phức tạp và nhiều nhức nhối, Chính phủ Trung Quốc đã hoàn thành dự án trước thời hạn vào năm 2008.
Đập sông Dương Tử sản xuất 2% lượng điện của Trung Quốc và thay thế cho 30 triệu tấn than hàng năm. Tuy vậy những chi phí xã hội, môi trường, địa chất và tài chính thì gây nhiều ngạc nhiên. Dưới đây là một bản tóm tắt những vấn đề chính:
- Mất nhà cửa: Đập Tam Hiệp đã phủ kín 13 thành phố, 140 thị trấn và 1350 làng và làm 1,2 triệu người mất nhà cửa. Rất nhiều người dân phải tái định cư đã bị lừa mất tiền bồi thường và không nhận được công việc mới hay đất đai như chính phủ đã hứa. Trong khi một số thị trấn mới được xây dựng vừa phục hồi từ cú sốc mất nơi ở ban đầu, nhưng nhiều người khác lại bị lâm vào tình trạng thất nghiệp và nghèo đói.
- Hủy hoại về sinh thái: Việc xây dựng đập thủy điện Tam Hiệp được chuẩn bị trước để đối mặt với những vấn đề xã hội và môi trường, nhưng không được chuẩn bị cho các tác động địa chất rộng rãi. Sự thay đổi thất thường của mực nước tại các hồ chứa nước của đập làm mất ổn định độ dốc của thung lũng Dương Tử, và kích hoạt những trận lở đất thường xuyên. Xói mòn ảnh hưởng tới một nửa diện tích hồ chứa, và hơn 300.000 người nữa sẽ phải tái định cư để ổn định lại bờ hồ chứa.
Đập Tam Hiệp của Trung Quốc. Ảnh: Christoph Filnkößl (Wikipedia)
- Các tác động tới hạ lưu: sông Dương Tử lưu chuyển hơn 500 tấn phù sa xuống các hồ chứa mỗi năm. Hầu hết lượng phù sa hiện nay bị giữ tại các khu vực hạ lưu và đặc biệt là đồng bằng Dương Tử. Hậu quả là, lên tới 4 cây số vuông vùng đầm lầy rìa bờ biển bị xói mòn hàng năm. Đồng bằng đang chìm dần, trong khi nước biển thì dâng ngược xâm lấn vào sông, ảnh hưởng tới nông nghiệp và nước uống. Vì thiếu chất dinh dưỡng, các ngư trường hiện nay đang phải gánh chịu hậu quả.
- Nhạy cảm với biến đổi khí hậu (BĐKH): đập Tam Hiệp là minh chứng cho sự thay đổi thất thường của BĐKH tạo ra những rủi ro mới cho các dự án thủy điện như thế nào. Những người vận hành đập lập kế hoạch tích nước đầy hồ chứa lần đầu tiên vào năm 2009, nhưng họ không thể làm vậy vì không có đủ mưa. Lượng mưa thất thường hơn bao giờ hết đặt một dấu hỏi lớn đằng sau những lợi ích kinh tế của đập Tam Hiệp.
- Chi phí tài chính: chi phí chính thức cho đập sông Dương Tử là 27 tỷ USD. Các nhà phê bình lập luận rằng, nếu những chi phí ẩn được tính vào, thì giá trị thực của con đập lên tới 88 tỷ USD. Nếu sản xuất điện và thay thế phương pháp đốt than tạo điện bằng các phương pháp khác thì sẽ rẻ hơn. Trong khi con đập đang được xây dựng, hiệu suất năng lượng của nền kinh tế Trung Quốc đi xuống. Theo Tổ chức Năng lượng tại Mỹ, "nếu Trung Quốc đầu tư vào hiệu suất năng lượng, thì năng lượng của nước này sẽ rẻ hơn, sạch hơn và hiệu quả cao hơn" là những nhà máy năng lượng hạt nhân mới.
Ngày 18/5/2011, Chính phủ Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhận các vấn đề nghiêm trọng của đập. Chính phủ vẫn cho hay: "Dự án này có lợi ích to lớn trong việc ngăn lũ, sản xuất điện, giao thông đường sông và sử dụng nguồn nước", nhưng nó "đã gây ra những vấn đề khẩn cấp về mặt bảo vệ môi trường, ngăn ngừa các thảm họa địa chất và phúc lợi của các cộng đồng tái định cư".
Không nên xây đập trên dòng chính
Dự án đập Tam Hiệp được coi là một hình mẫu về xây dựng đập cho các dự án ở Campuchia và rất nhiều nước khác. Các nhà thầu đập Tam Hiệp như Sinohydro và Gezhouba và các công ty Trung Quốc khác hiện đang xây dựng các đập Da Dai, Kamchay, Kirirom III, Lower Stung Russey, Stung Atay và Stung Tatay trên các con sông tại Campuchia. Các công ty Trung Quốc cũng kí biên bản ghi nhớ phát triển đập Sambor trên sông Mekong, và đã đề xuất một số các dự án trên các sông Stung Cheay Areng và Srepok.
Các bài học từ dự án đập Tam Hiệp khi Campuchia cân nhắc chiến lược phát triển thủy điện trong tương lai là gì? Đầu tiên, đập sông Dương Tử cho thấy các con đập lớn trên sông chính là tác nhân can thiệp vào các hệ sinh thái có mức độ đa dạng cao. Các tác động của chúng có thể xảy ra cách xa hàng ngàn cây số và nhiều năm sau khi công trình hoàn thành. Người ta không thể dự đoán và giảm nhẹ tất cả các tác động xã hội và môi trường của những dự án như thế.
Kinh nghiệm từ đập Tam Hiệp cho thấy xây dựng đập trên dòng chính các sông lớn sẽ đặc biệt hủy hoại, vì nó sẽ ngăn cản sự di cư của cá và lưu chuyển của phù sa trên suốt hệ sinh thái của dòng sông. Trong bản báo cáo đầu tiên - Đập và Phát triển - Ủy hội Đập Thế giới khuyến nghị, nếu có các lựa chọn khác thì không nên xây dựng đập trên dòng chính.
Một Đánh giá Môi trường Chiến lược được chuẩn bị cho Ủy hội Sông Mekong (MRC) dự đoán rằng xây đập trên dòng chính hạ lưu sông Mekong sẽ gây ra thiệt hại các ngư trường đánh bắt cá ven sông và ven biển, làm giảm sản lượng nông nghiệp tại vùng đầm lầy Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), làm xói mòn đường bờ biển của đồng bằng và đường bờ biển. Tất cả những tác động này đã xảy ra và được minh chứng trong dự án đập Tam Hiệp.
MRC đã đúng khi khuyến nghị rằng không nên xây đập trên hạ lưu sông Mekong trong vòng 10 năm tới, và Chính phủ Campuchia có những lý do chính đáng để kêu gọi sự cẩn trọng về đập Xayaburi dự kiến xây dựng tại Lào. Cũng nên cẩn trọng như vậy khi cân nhắc đập Sambor tại tỉnh Kratie.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã dự đoán rất nhiều tác động của đập Tam Hiệp, tuy nhiên tiếng nói của họ rơi vào lặng im khi chính phủ chỉ chú tâm tới những mối quan tâm của quốc gia.
Trong các dự án trị giá nhiều tỷ đôla, những mối quan tâm đó thường bị lu mờ bởi tiếng tăm về chính trị, các cuộc đấu tranh giành quyền lực và phản ứng kịch liệt của ngành mà con người dễ sa vào tham nhũng. Những mối quan tâm bất di bất dịch này cần được cân bằng và chỉ rõ trách nhiệm bằng quá trình ra quyết định minh bạch và có sự tham gia rộng rãi.
Cuối cùng, Trung Quốc đã dành hàng chục tỷ đôla cho các chương trình tái định cư đập Tam Hiệp. Nhưng vì những người bị ảnh hưởng lại bị loại ra khỏi quá trình ra quyết định, chương trình này thường không đề cập tới nhu cầu và mong muốn của họ, và gây ra sự nghèo đói và phẫn nộ lớn trong quần chúng. Kinh nghiệm sông Dương Tử cho thấy những cộng đồng bị ảnh hưởng và những người liên quan nên tham gia vào quá trình ra quyết định đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lớn ngay từ đầu.
  • Mạng lưới Sông Ngòi Việt Nam (VRN) dịch
Tác giả: Peter Boshard (Thời báo Phnom Penh)

Tại sao Trung Quốc phải xuống nước về vấn đề quần đảo Trường Sa

LTS: Thời báo Hoàng Cầu của chính phủ Trung Quốc gần đây đã liên lạc với Walden Bello thực hiện cuộc phỏng vấn bằng thư điện tử về vụ tranh cãi dai dẳng Trường Sa - Biển Tây Philippines. Sau khi gửi bài trả lời ông đã không nhận được hồi âm cũng như thông tin liên lạc thêm từ tờ báo này. Theo nguyên tắc không bao giờ để cho một bài phỏng vấn tốt được bỏ phí, ông đã in lại như một bài viết sau đây:

Bạn thấy cuộc khủng hoảng ở Biển Nam Trung Quốc hiện nay ra sao? Nó sẽ tiếp tục leo thang?

Vâng, tôi sợ rằng căng thẳng sẽ tăng lên và có thể vuột ra khỏi tầm tay, và lỗi không nằm ở Philippines và các nước Đông Nam Á khác.

Đối với vấn đề Biển Nam Trung Hoa, Trung Quốc đã được luôn luôn ủng hộ nguyên tắc gác tranh chấp và cùng hợp tác phát triển, theo ý kiến của bạn, đó là một cách thích hợp để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông?

Cùng phát triển mà không có phân định rõ ràng về biên giới là một công thức cho các cuộc xung đột trong tương lai.

Cách thích hợp để giải quyết vấn đề là thông qua đàm phán đa phương liên quan đến tất cả các bên có đòi hỏi chủ quyền trong khu vực. UNCLOS (Công ước của LHQ về Luật biển) được xây dựng nguyên tắc các nước có các vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí, và ở những nơi mà các các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) này chồng lấn nhau và ở những nơi có khu vực tranh chấp thì các cuộc đàm phán đa phương là giải pháp duy nhất khả thi cho trường hợp có nhiều nước đòi hỏi chủ quyền. Đây là một vị thế rất hợp lí.

Tuy nhiên, Trung Quốc từ chối giải pháp này, và thay vào đó cố giải quyết vấn đề một cách đơn phương bằng cách xâm nhập các EEZ 200-hải lí của các nước khác, hoặc xây dựng một số kiến trúc trong những khu vực này, như trong một số bộ phận của quần đảo Trường Sa trong EEZ của Philippines. Chẳng hạn, Mischief Reef (Panganiban Reef) nơi mà Trung Quốc chiếm đóng trước sự phản đối của Philippines, cũng là nằm ngay trong EEZ 200 hải lí của Philippines và cách xa hơn 1.000 hải lí từ bờ biển Trung Quốc.

Hơn nữa, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách cho toàn bộ biển này tiến sát khu vực tiếp giáp 24 hải lí hoặc các giới hạn lãnh thổ 12-hải lí của các nước khác trong khu vực, hoàn toàn không để ý đến EEZ của những nước khác và thực tế là vùng biển và đảo Trung Quốc đòi hỏi thì cách xa vài trăm hoặc thậm chí một nghìn hải lí hay hơn nữa ngoài biên giới lãnh thổ Trung Quốc. Đó là cách hành xử của một siêu cường, và ở đây tiếc thay Trung Quốc mô phỏng các ví dụ của thực dân châu Âu và Hoa Kỳ.

Ảnh minh họa: ru.wikipedia.org

Một số người dự đoán rằng một cuộc chiến tranh ở Biển Nam Trung Hoa là không thể tránh khỏi, bạn có đồng ý không?

Không, tôi không nghĩ như vậy, mặc dù có các va chạm về hải quân, chẳng hạn như cuộc chạm trán bi thảm vào năm 1988 giữa Trung Quốc và Việt Nam, mà khoảng 70 thủy thủ Việt Nam thiệt mạng, là một khả năng. Trung Quốc thực sự phải xuống nước từ tư thế hung hăng của nó, nếu không, một chuỗi các sự kiện có thể phát sinh từ đó sẽ đi ra ngoài tầm kiểm soát. Hãy nhớ rằng, chiến tranh thế giới I là một cuộc chiến ngoài ý muốn, một cuộc chiến mà không ai mong muốn, nhưng một khi tiến hành động binh lẫn nhau thì khó có thể đưa mọi thứ vào trong tầm kiểm soát. Ngoại giao đa phương cho một giải pháp toàn diện về vấn đề biển Tây Philippines là cách tốt nhất để tránh một cuộc xung đột không mong muốn như thế.

Trung Quốc đã phát triển quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với nhiều nước ở Đông Nam Á bao gồm cả Philippines và duy trì quan hệ tốt với các nước này, tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa sẽ ảnh hưởng đến quan hệ giữa Trung Quốc và Philippines đến mức độ nào ?

Những quan hệ kinh tế có thể chua đi nếu các nước Đông Nam Á nhận thức rằng Trung Quốc đang bắt đầu hành xử giống như một nước bá chủ quân sự kiêu ngạo.

Các nước có thể trở nên lo lắng nhiều hơn rằng quân đội Trung Quốc - hoặc sự đe dọa sử dụng nó - có thể được dùng để bảo vệ hoặc thúc đẩy đầu tư và các lợi ích kinh tế khác của Trung Quốc trong ãnh thổ của các nước này và bắt đầu áp đặt các hạn chế thương mại và đầu tư trên các luồng vốn và thương mại đổ vào Trung Quốc . Vì Trung Quốc trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào đất nông nghiệp ở Đông Nam Á để sản xuất lương thực cho dân số mình và vào tài nguyên của Đông Nam Á để nuôi ngành công nghiệp của mình, các nước chúng tôi sẽ lo lắng về những dấu hiệu của quyền bá chủ quân sự Trung Quốc.

Người ta nhớ rằng Nhật Bản viện đến vũ lực để giành quyền kiểm soát đất đai và tài nguyên của Đông Nam Á 70 năm trước đây. Họ cũng nhớ rằng thương nhân Nhật Bản, các nhà đầu tư, và người định cư bắt đầu đi vào các quốc gia khác nhau của khu vực trước khi quân đội Nhật Bản đến. Tất nhiên, Trung Quốc không phải là đế quốc Nhật, nhưng các bạn không thể đổ lỗi cho người dân trong khu vực Đông Nam Á nếu họ trở nên lo lắng bởi những dấu hiệu của quyền bá chủ quân sự phô ra bởi một cường quốc Đông Bắc Á khác.

Bạn thấy vai trò của Mỹ trong tranh chấp Biển Nam Trung Hoa thế nào? Mỹ sẽ ảnh hưởng đến tranh chấp ra sao?

Tất cả các nước có kí kết UNCLOS cam kết bảo vệ tự do hàng hải trong các tuyến đường thủy chính của thế giới, chẳng hạn như biển Tây Philippines. Philippines phải dựa vào ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) như là đồng minh then chốt của mình trong việc giải quyết vấn đề biển Tây Philippines với Trung Quốc. Tôi không đồng ý với chiến lược Philippines và Việt Nam lôi kéo Mỹ như một phương kế đầu tiên. Kéo Mỹ vào mang theo nguy cơ chuyển cuộc khủng hoảng thành một cuộc xung đột giữa các siêu cường.

Tuy nhiên, tôi thực sự không thể trách hai chính phủ này thực hiện tiến trình hành động đó. Tôi trách hành vi hung hăng của Trung Quốc. Cách tốt nhất để tránh sự can thiệp của Mỹ trong tranh chấp lãnh thổ ở biển Tây Philippines đối với Trung Quốc là ngưng cách hành xử hung hăng lại và đi đến bàn ngoại giao. Một giải pháp ngoại giao tránh sự can thiệp quân sự của Mỹ là vì lợi ích tốt nhất của cả Trung Quốc và Philippines.

Liệu Biển Đông có là một cơn nhức đầu dài hạn cho các nước có liên quan và cho an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương? Điểm đột phá để giải quyết vấn đề là gì?

Vâng, nó sẽ là một cơn đau đầu lâu dài nếu chúng ta không giải quyết vấn đề thông qua ngoại giao đa phương sớm. Một biển Tây Philippines phi quân sự trong đó biên giới biển được thoả thuận theo cùng một cách mà Vịnh Bắc Bộ và biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc đã được giải quyết bởi Việt Nam và Trung Quốc là sự bảo đảm tốt nhất cho hòa bình trong khu vực. Nếu Trung Quốc có thể giải quyết một cách hòa bình các đường biên giới với Việt Nam, tại sao nước này không làm điều tương tự trong các cuộc thảo luận đa phương với các nước giáp với biển Tây Philippines?

  • Theo viet-studies

Tình thế lưỡng nan của VN, Philippines và những cơ hội mới

Vấn đề là việc phối hợp giữa Việt Nam / Philippines đứng trước tình thế lưỡng nan (prisoner s'dilemma) là, nếu "anh" không sẵn sàng bảo vệ "tôi" khi tôi bị chèn ép, thì chính vì điều đó, tôi cũng sẽ không sẵn sàng bảo vệ anh, khi anh bị chèn ép.

Tính đa phương trong cuộc chơi chèn ép song phương về chủ quyền

Hợp tác đa phương giữa các quốc gia nhỏ, chống lại sự chèn ép bởi quốc gia lớn trong vùng, là điều tự nhiên, nhưng khó thực hiện. Lấy ví dụ, Trung Quốc gây hấn với tàu thuyền của Philippines gần Bãi Cỏ rong (Reed Bank). Nhưng điều đó chưa đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Việt Nam, vốn muốn giữ tình láng giềng hữu hảo với Trung Quốc. Ngược lại, việc Trung Quốc cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh 02, cũng không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Philippines, trong khi nước này vẫn có lợi ích thương mại và bang giao với Trung Quốc về nhiều mặt.

Vì lẽ đó, tại hội nghị an ninh khu vực Shangri-La tại Singapore, người ta chứng kiến sự phản đối đồng thời của cả Việt Nam và Philippines trước hành động gây hấn của Trung Quốc. Nhưng đây không phải là hành động phối hợp trong một "Mặt trận thống nhất", như điều mà Thượng nghị sĩ Mỹ McCain đã nêu tại Washington sau đó, vào ngày 20/06/2011. Vì vậy, cho đến nay, bản chất của cuộc chơi chèn ép song phương do Trung Quốc tiến hành vẫn không thay đổi. Cùng với nó là sự mất mát đơn phương về chủ quyền của Việt Nam / Philippines vẫn chưa có chuyển biến tích cực. Ví dụ, ngay sau khi hội nghị cấp cao về an ninh khu vực Shangri-La vừa kết thúc, Trung Quốc ngay lập tức cho 3 tầu bán vũ trang cố tình tấn công, cắt cáp tàu Viking 02 của Việt Nam.

Vấn đề là việc phối hợp giữa Việt Nam / Philippines đứng trước tình thế lưỡng nan (prisoner s'dilemma) là, nếu "anh" không sẵn sàng bảo vệ "tôi" khi tôi bị chèn ép, thì chính vì điều đó, tôi cũng sẽ không sẵn sàng bảo vệ anh, khi anh bị chèn ép. Sự hình thành một Mặt trận thống nhất trong khu vực, do đó, đòi hỏi có sự nhất trí và hợp tác đủ rộng và đủ chặt về nhiều mặt giữa các thành viên có liên quan (economies of scale and scope in coordination mechanism).

Những chuyển biến tích cực

Chính ở điểm này, sự tham dự của Mỹ, Nhật, và cả Nga, Ấn Độ, như là một đối trọng với Trung Quốc để gìn giữ an ninh khu vực, chứ không phải đối đầu về quân sự, là vô cùng quan trọng. Cụ thể là sau khi Thượng nghị sỹ Jim Webb lên tiếng kêu gọi Quốc hội Hoa Kỳ phải có động thái tương thích trước các hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông, thì tính phối hợp của các nước trong khu vực và quốc tế đã có một sự chuyển biến tích cực. Diễn biến của hội thảo về Biển Đông tại Washington hôm 20 -21/06/2011 thể hiện điều đó.

Từ hội thảo này, một cơ chế an ninh và hợp tác đa phương, nhằm dàn xếp hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông, đã bắt đầu được hình thành. Cơ chế an ninh đó là nhằm thúc đẩy: (i) Các bên phải có hành động kiềm chế, không sử dụng vũ lực trên không và trên biển để giải quyết tranh chấp. (ii) Hình thành một mặt trận thống nhất hành động nhằm gìn giữ sự ổn định trong khu vực. (iii) Mỹ cần có hành động phối hợp một cách đúng lúc, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, nhằm ngăn chặn xung đột tiềm tàng. Sự phối hợp này có thể bao hàm việc tập trận chung nhằm duy trì an ninh hàng hải, cho đến việc giúp các nước trong vùng triển khai các hệ thống cảnh báo sớm, xây dựng hệ thống phòng thủ chống lại nguy cơ xảy ra xâm lược vũ trang. (iv) Tăng khả năng cam kết của Mỹ với việc bảo vệ an ninh khu vực và trật tự hàng hải quốc tế. Nói rõ hơn: "Mỹ chấp nhận hay không chấp nhận những tuyên bố nào, cũng như chúng ta (Mỹ) sẵn sàng ủng hộ những hành động nào" (McCain, 20/06/2011).

Cần nhắc lại là, việc bảo vệ an ninh khu vực và tự do an toàn hàng hải trên Biển Đông là một dạng hàng hóa công (public goods). Thiếu vai trò của siêu nhà nước, như Mỹ và Nhật, thì sẽ có quá ít sự đảm bảo về ổn định khu vực và an toàn hàng hải. Cụ thể là khi Philippines cho nhổ các cột đá do Trung Quốc dựng trên bãi đá thuộc vùng biển của mình, hay Malaysia cho máy bay ra đuổi tầu đánh cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải của Malaysia, thì các nước này thực tế đã cung cấp hàng hóa công. Theo nghĩa, hành động của họ ngăn cản Trung Quốc xâm hại lãnh thổ và chủ quyền biển đảo của nước mình, tự nó mang tính răn đe việc Trung Quốc đi xâm hại một nước khác trong khu vực.

Bên cạnh đó, sự trả lời được cho là cứng rắn nhất của Thủ tướng Việt Nam tại Nha Trang sau vụ việc Bình minh 02, cũng như sự đáp trả của báo Đại đoàn kết của Việt Nam trước lời đe dọa sử dụng vũ lực của Trung Quốc vào ngày 21/06/2011 trên tờ Hoàn Cầu, lại là một tín hiệu khích lệ Philippines thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình*.

Tàu Viking 2 của Việt Nam bị cắt cáp chỉ vài ngày sau Đối thoại Shangri-La.

Tuy nhiên, việc từng nước nhỏ cung cấp hàng hóa công, hay tự vệ đơn phương như vậy, không bao giờ là đủ để ngăn chặn sự chèn ép. Vấn đề là các nước khác trong vùng có thể ngồi yên, hưởng lợi từ việc các nước "tiền tuyến" phải đơn phương đứng ra bảo vệ chủ quyền, mà hệ quả là sẽ đem lại sự ổn định hơn tại Biển Đông, nếu họ thành công. Ngược lại, nếu họ bị suy yếu đi, thì các nước còn lại đã nằm sẵn trong một trật tự mới đang dần được thiết lập, mà không bị tổn thất gì (free ridding).

Tình thế lưỡng nan trong hợp tác khu vực (prisoners' dilema) và động cơ hưởng lợi trên nỗ lực của nước khác (free ridding), khiến cho vai trò phối hợp của Mỹ, Nhật, và các nước như Nga, Ấn Độ, càng trở nên không thể thiếu được, dù không dễ dàng. Tuy nhiên, sau Hội thảo Biển Đông tại Washington, chúng ta có thể kỳ vọng về một sự cam kết cao hơn của Mỹ và đồng minh trong việc bảo vệ chủ quyền của Philippines. Chúng ta cũng có thể kỳ vọng một sự hỗ trợ đúng lúc và hiệu quả của Mỹ, Nhật và các nước khác cho Việt Nam, trước tuyên bố hiếu chiến của Trung Quốc trên tờ Hoàn cầu. Cụ thể là Mỹ, Nhật và Nga có thể giúp nâng cao khả năng phòng thủ và cảnh báo sớm của Việt nam trên không, trên biển đảo, và trên đất liền.

Cần nhấn mạnh rằng, vai trò của Mỹ, Nhật và cộng đồng quốc tế không phải là làm tăng sự đối đầu về quân sự. Vai trò chính là phải đưa ra những phản ứng kịp thời, phù hợp với bối cảnh cụ thể, tới đúng đối tác cụ thể, nhằm ngăn chặn khủng hoảng khu vực và thúc đẩy nỗ lực hợp tác.

Trong bối cảnh có sự khác biệt về ý thức và khả năng bảo vệ chủ quyền giữa các nước trong khu vực; cộng với sự khó khăn về kinh tế sau khủng hoảng của cả Mỹ, Nhật và Tây Âu; bên cạnh một Trung Quốc đang lên; liệu một cơ chế an ninh quốc tế có tính đa phương có hình thành được không? Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhìn sâu hơn vào những thay đổi có thể diễn ra của cuộc chơi chèn ép, khi có sự tham dự của bên thứ ba - Mỹ, Nhật và các nước khác như Nga, Ấn Độ.

Trung Quốc và hai cuộc chơi liên đới

Trong cuộc chơi chèn ép song phương đã mô tả ở trên, điểm mạnh của Việt nam / Philippines là công lý đứng về phía mình. Tính phiêu lưu trong chiến lược chèn ép của Trung Quốc là nó ngày một đẩy Mỹ và các đồng minh của Mỹ là Nhật Bản và Tây Âu, bao gồm cả Úc, vào thế phải đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc cạnh tranh về tự do hàng hải. Cụ thể là xung đột trong tương lai về quyền tự do lưu thông và an ninh hàng hải ở Tây Thái Bình Dương, một khi Việt Nam / Philippines và các nước trong khu vực bị mất dần chủ quyền và rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc.

Như vậy, song song với cuộc chơi chèn ép các nước nhỏ, Trung Quốc tiến hành một cuộc chơi khác, giành thế và lực trong cuộc cạnh tranh hay đối đầu trong tương lai về trật tự khu vực với Mỹ, Nhật, Úc và cả các nước khác như Nga, Ấn Độ.

Xét ở thời điểm hiện tại, hai cuộc chơi này không phải là không liên đới nhau (Multi-game linkage). Cụ thể là, trước sự chèn ép hay đe dọa quân sự của Trung Quốc, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, mà Mỹ và Nhật đóng vai trò quan trọng, sẽ cho phép Việt Nam / Philippines "lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh". Một khi sức mạnh tự vệ của Việt Nam / Philippins tăng lên, thì sẽ làm tăng thế và lực của cộng đồng quốc tế, đứng đầu là Mỹ, trong cuộc chơi thứ hai nhằm bảo vệ trật tự khu vực.

Điểm nhấn trong sự kết nối giữa hai cuộc chơi này chính là tính chính nghĩa. Hành động của Trung Quốc càng bạo ngược, càng phi đạo lý, thì vị thế của nó trong khu vực càng giảm. Theo nghĩa, sự liên kết giữa các nước nhỏ với Mỹ và đồng minh nhằm bảo vệ chủ quyền và ổn định khu vực càng tăng. Ngược lại, mọi chuyển biến tích cực từ phía Trung Quốc, tự nó sẽ làm giảm nhiệt trong khu vực. Ví dụ cụ thể là việc Trung Quốc vừa tái khẳng định giải quyết tranh chấp bằng thương lượng với Việt Nam vào ngày 26/06/2011. Nhưng nỗ lực ngoại giao đó sẽ chỉ làm Việt Nam xích lại gần Mỹ hơn, một khi Trung Quốc lại có hành động không tương thích với lời nói.

Phân tích trên đây cho thấy, cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phương mà Trung Quốc tiến hành với nước nhỏ hơn trong vùng đã thay đổi về bản chất. Bây giờ, nó bị kết nối với cuộc chơi khác, nhằm xác định trật tự hàng hải giữa Trung Quốc và Mỹ, mà chủ yếu là xác định rõ quyền tự do lưu thông và an toàn hàng hải qua Biển Đông.

Trong cuộc chơi ghép nối - chèn ép chủ quyền và xác định trật tự hàng hải - việc Trung Quốc tôn trọng thỏa thuận ở cuộc chơi đầu sẽ tạo sự giảm nhiệt ở cuộc chơi sau. Cụ thể là nó làm giảm sự tranh giành quyền ảnh hưởng tại khu vực giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong hoàn cảnh đó, sự ổn định ở khu vực được duy trì: Việt Nam / Philippines không mất gì; Mỹ không can dự gì và Trung Quốc cũng không chiếm đoạt được gì về chủ quyền hay quyền tự do lưu thông hàng hải của các nước khác. (Theo ngôn ngữ của cuộc chơi chèn ép, các bên đều nhận 0 điểm).

Trong một lựa chọn khác, Trung Quốc có thể tiếp tục gây hấn, chèn ép Việt Nam / Philippines, bất kể hậu quả là phải đối mặt với Mỹ trong cuộc giằng co về ảnh hưởng khu vực và trật tự hàng hải. Vấn đề là, Trung Quốc có tham vọng lớn muốn siết chặt con đường biển chiến lược, mà hiện có tới 80 phần trăm dầu nhập khẩu của Trung Quốc và hơn 1/3 giá trị thương mại toàn cầu đi qua đó.

Tuy nhiên, một chiến lược tiếp tục gây hấn để kiểm soát sẽ không còn là lựa chọn tốt cho Trung Quốc, ít ra là vào bây giờ. Sức mạnh răn đe của Mỹ hiện đang chiếm ưu thế khiến cho Trung Quốc khó có thể gây ra một cuộc xung đột song phương, mà ngay lập tức có thể biến thành xung đột khu vực. Tổn thất về kinh tế do con đường hàng hải chiến lược bị phong tỏa và mất mát về ngoại giao do bị cô lập trong vùng có thể là quá lớn. Trong hoàn cảnh đó, có thể xem như Trung Quốc bị lùi một bước trong chiến lược lập trật tự mới trong vùng (mất 1 điểm).

Ngược lại, Mỹ sẽ được lợi khi dựa vào sức mạnh quân sự hiện có để duy trì trật tự hiện hữu và hưởng lợi từ quyền tự do và an toàn hàng hải ở Tây Thái Bình Dương. Nói khác đi, Mỹ thắng 1 điểm.

Nói như vậy để thấy, Mỹ sẽ không ngồi yên, nếu Trung Quốc gây hấn tới mức đe dọa sự ổn định khu vực và an toàn hàng hải. Nếu vậy, thì Trung Quốc cũng sẽ không thể gây hấn, nếu tính đến tổn thất phải trả. Trong tương quan đó, Việt Nam / Philippines sẽ phối hợp phòng thủ với Mỹ nếu có xung đột xảy ra với Trung Quốc. Tổn thất sẽ ít hơn nhiều so với ngồi yên để chịu Trung Quốc gặm nhấm dần chủ quyền của mình. Nói vắn tắt, chủ ý gây xung đột quân sự với Việt Nam như lời đe dọa trên tờ Hoàn cầu Thời báo là chưa có khả năng xảy ra.


Nghĩ về nhân tài

Qua 38 năm làm lãnh đạo trường ĐH, lần đầu tiên tôi có dịp bắt tay và tiếp chuyện với tất cả phụ huynh đưa con em đi thi ĐH. Đó là ngày Trường ĐH Tân Tạo lần đầu tiên cùng các trường ĐH trong cả nước tổ chức thi tuyển khối A.

Trường ĐH Tân Tạo chỉ có… 31 thí sinh đăng ký! Không một ai chen lấn. Trật tự và trống vắng.

Một số phụ huynh tỏ ra ngạc nhiên, nhiều người khác có vẻ lo ngại. Theo kế hoạch, Trường ĐH Tân Tạo tuyển 500 sinh viên vào 8 ngành khá thời thượng. Tất cả sinh viên trúng tuyển đều được cấp học bổng toàn phần gồm học phí; tiền ăn, ở; bảo hiểm sức khỏe và một máy laptop.

Nhưng sao thí sinh ít đăng ký vào Trường ĐH Tân Tạo như vậy?

Trò chuyện với các phụ huynh, tôi mới hiểu thêm dư luận đã và đang nghĩ gì về Trường ĐH Tân Tạo. Trước hết, nhiều học sinh sợ trượt vì tiêu chuẩn xét tuyển cao quá (điểm trung bình năm từ lớp 10 đến 12 phải là 7,0 trở lên và không có điểm dưới 5,0; kết quả thi tuyển sinh phải đạt 4 điểm trên điểm sàn do Bộ GD-ĐT quy định; qua một cuộc phỏng vấn của trường). Nhiều người chưa tin vì trường còn quá mới, thậm chí nghi trường có “ý đồ” gì đây!... Thế thì cũng đặt câu hỏi ngược lại: Tại sao cũng có những phụ huynh đưa con em đến đây? Tôi rất cảm động khi một phụ huynh nói: “Thầy làm hiệu trưởng mấy trường trước đều thành công nên lần này chắc thầy không để chúng tôi thất vọng!”. Tôi tâm sự với họ rằng tôi và nhiều nhà giáo, trí thức tâm huyết trong và ngoài nước hằng ấp ủ ước mơ thực hiện thành công một câu trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX (được lặp lại trong Nghị quyết Đại hội X và mới đây được lặp lại lần thứ ba trong Nghị quyết Đại hội XI), đó là “cải tiến cơ bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam…”.

Con người Việt Nam chúng ta rất thông minh nhưng trí thông minh sẽ chẳng thể nào phát huy nếu không được tạo điều kiện thích hợp. Học sinh của ta sang Hồng Kông, Malaysia, Singapore học từ lớp 10, tốt nghiệp phổ thông bên đó rồi đi Anh, Úc, Mỹ học rất giỏi, đậu cao, đi làm được trả lương hậu hĩ. Ví như cháu Trần Thanh Tâm ở TP Long Xuyên - An Giang, được gia đình cho học thêm Anh ngữ từ lớp 1; xong lớp 9, Tâm thi lấy học bổng sang Singapore học lớp 10 đến lớp 12, luôn dẫn đầu lớp. Khi Tâm tốt nghiệp trung học, tôi hướng dẫn cháu nộp đơn xin vào ĐH Stanford và ĐH Cornell bên Mỹ. Hai tuần sau, ĐH Cornell gửi thư báo tin Tâm trúng tuyển, kèm theo học bổng toàn phần. Sang ĐH Cornell, Tâm học rút chương trình 4 năm còn 3 năm, tốt nghiệp thủ khoa toàn trường rồi học tiếp 18 tháng nữa lấy bằng master. Vừa ra trường, Tâm được Công ty Tư vấn quốc tế McKenzie của Mỹ tuyển ngay với mức lương khởi điểm 84.000 USD/năm. Trong trường hợp học tại Việt Nam, dễ gì Tâm được như vậy. nếu phải “xếp hàng” theo cách của Bộ GD-ĐT ở ta thì không biết giờ này cháu có xong được bằng master chưa, và nếu xong thì có ai tuyển dụng cháu với mức lương “khủng” đó? Cũng như GS Ngô Bảo Châu, nếu ông học và làm việc theo hệ thống giáo dục của Việt Nam hiện tại thì biết bao giờ mới đoạt giải Fields danh giá!

Tôi tin tưởng mãnh liệt vào sự thông minh của người Việt và sự thông minh đó phải được nuôi dưỡng trong môi trường giáo dục tiên tiến thì đất nước ta mới có nhiều nhân tài.

môi trường GD ở việt nam hiện nay chưa phải là mảnh đất màu mỡ cho các hạt giống tài năng phát triển. Ai cũng biết nhân tài mới là nguyên khí của Quốc gia,chứ không phải là những thành tích suông của một nền giáo dục. Vậy mà đã ba kỳ đại hội Đảng, chỉ có mỗi một câu“cải tiến cơ bản và toàn diện nền giáo dục Việt nam…” vẫn chưa ai làm được. Buồn lắm thay...
GS Võ Tòng Xuân