Có một con bệnh làm suy yếu xã hội đã quá nhiều năm, nhưng lúc nào cũng khiến nhân dân bừng bừng "bốc hỏa", vì nó liên quan nhãn tiền đến vận nước. Bởi tuy nguy hiểm nhưng nó ẩn họa trong cơ thể xã hội quá kín đáo và khéo léo. Đến nỗi mọi thang thuốc chữa trị đến giờ vẫn không có hiệu quả là bao.
Đó là con bệnh Tham nhũng
Quan "tham" và dân "gian"
Báo cáo của Tổng Thanh tra CP tại phiên họp Quốc hội ngày 24/10 mới đây cho biết, từ 1/10/ 2010 đến 31/7/2011, cơ quan điều tra các cấp đã khởi tố 163 vụ tham nhũng (có 349 bị can). Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp đã truy tố 194 vụ tham nhũng (391 bị can). Tòa án Nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 171 vụ (409 bị can)
Đã có 67 trường hợp người đứng đầu bị xử lý kỷ luật vì thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong lĩnh vực quản lý, trong đó cách chức 14 người, cảnh cáo 16, khiển trách 34...
Thế nhưng, thảo luận về tình hình thực hiện công tác này, nhiều Ủy viên Thường vụ QH băn khoăn, con số thất thoát do tham nhũng lên tới 11.400 tỉ đồng, chỉ mới thu hồi được hơn 300 tỉ (2,6%), một tỷ lệ hơi bị... bèo. Chính phủ cũng nhận định, tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp.
Đẩy lùi tham nhũng là đòi hỏi khẩn thiết của nhân dân
Cũng xin nói thẳng, tham nhũng không phải là "nỗi khổ của riêng ai".
Nó là căn bệnh của mọi quốc gia, từ tiên tiến văn minh, đến chậm tiến. Nhưng chắc chắn nó sẽ giảm bớt, nếu cơ chế quản lý xã hội quốc gia đó tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, và thiết kế phù hợp quy luật phát triển.
Đáng chú ý, tham nhũng giờ cũng không buông tha ai.
Không chỉ các quan chức có chức quyền bị tiền ăn, mà tiền còn ăn ngay chính cán bộ, nhân viên cơ quan công quyền trong lĩnh vực hành chính các cấp, thầy giáo, thầy thuốc, cảnh sát giao thông, tòa án... Chả thế từ lâu có câu chí lý- quan tham, dân gian.
Tham nhũng được khái quát, nâng lên nên thành ...văn hóa- "văn hóa tham nhũng"- một thứ văn hóa đáng tủi hổ.
Để hiện tượng tham nhũng, ăn tiền mang tính hệ thống, chắc chắn có vấn đề khiếm khuyết của cơ chế quản lý xã hội.
Người viết bài tâm đắc với ý kiến của GS. TS Đỗ Thế Tùng (Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh) phát biểu tại hội thảo do Tạp chí Cộng sản và Viện khoa học Xã hội VN tổ chức: Nếu như tham nhũng không được đẩy lùi thì nên hiểu là tham nhũng nằm ngay trong cơ chế, đang là cơ chế "nuôi dưỡng" chứ không phải đẩy lùi tham nhũng!
Những khiếm khuyết, lỗ hổng tạo sơ hở cho tham nhũng nảy nở là gì?
Đó là cơ chế xin- cho. Cơ chế quản lý kiểu này cho con người quyền quyết định, ban cho quá lớn, nhưng lại thiếu sự giám sát, kiếm soát để kiềm chế lạm quyền. Điều đó tạo ra điều kiện tốt để tham nhũng có điểm tựa thêm... sức bật.
Đó là sự ưu đãi độc quyền, không có đối thủ cạnh tranh trong kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Nhà nước. Ở đây, lợi ích nhóm gắn với tham nhũng như bóng với hình. Sớm muộn, các DNNN phải được thay đổi cách thức quản trị theo thông lệ quốc tế, chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính xin- cho như hiện nay.
Đó là tệ mua bán chức quyền, là quy định quy định công khai minh bạch tài sản quan chức, nhưng lại có "vùng cấm"...
Đó là chưa có Luật Bảo vệ nhân chứng. Trong khi các quy định hiện hành bảo vệ người tố cáo tham nhũng còn chung chung, chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo đảm an toàn cho người tố giác tham nhũng.
Người Việt nào cũng nằm lòng câu triết lý sống này: "Đấu tranh, tránh đâu"? Một câu hỏi chắc chắn không có câu trả lời! Vì thế, luôn tồn tại trong xã hội nghịch lý chua chát: Người ngay sợ kẻ gian, người tốt sợ kẻ xấu, người lương thiện sợ kẻ lưu manh.
Mặt khác, bộ máy phòng chống tham nhũng từ cấp tỉnh trở xuống, lại do Chủ tịch UBND tỉnh - người có thẩm quyền ban phát xin- cho, nơi luôn tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, quyết định và chỉ đạo. Với mô hình vừa đá bóng vừa thổi còi, ngay từ đầu, đã có nhiều tranh cãi tại Quốc hội về hiệu quả của nó.
Chẳng thế mà, mới đây Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh đã đề xuất đổi vai- trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cấp tỉnh hiện nay, phải là Chủ tịch HĐND, chứ không phải Chủ tịch UBND tỉnh, hoặc cần có một cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập. Dư luận đang chờ đợi xem liệu những đề xuất mới này có được chấp nhận.
Chợt nhớ điệp khúc một ca từ hài hước: "Vì sao anh không nói. Vì sao anh không n...ó...i...í...í..."
Con bệnh tham nhũng còn có một kẻ họ hàng thân thiết, rất gần gũi. Nó không nham nhở về khái niệm như tham nhũng, mà có khi rất mỹ miều, bóng lộn, chải chuốt, nhân danh tập thể. Nhưng thực chất cũng mang bản chất tham lam phạm pháp, ích kỷ, chỉ biết mình...
Nó là Lợi ích nhóm
Hạt muối nhỏ- lợi ích to
Ngày 24/10 mới đây, ViêtNamNet có bài viết "Hoa mắt vì lợi trước mắt, bóp chết sản xuất trong nước".
Đọc mà bỗng thấy ...hoa cà hoa cải, vì cái cách tư duy lợi ích nhóm, nó ranh ma luồn lách. Đến hạt muối bé xíu cũng không thoát!
Theo đó, Tổng cục Hải quan vừa kết thúc chuyên án điều tra về nhập khẩu muối tại ba DN đã lộ ra không ít gian lận.
Đó là chuyện Công ty TNHH một thành viên Hóa chất cơ bản miền Nam, được Bộ Công thương cấp tới bẩy giấy phép nhập khẩu muối công nghiệp với số lượng lên tới 221.740 tấn để sử dụng vào sản xuất công nghiệp. Do đó, được hưởng thuế suất ưu đãi 15% (so với mức 50% thông thường).
Tuy nhiên, DN này chỉ bán một phần cho các đối tác phục vụ mục đích công nghiệp, còn lại để sản xuất muối ăn bán ra thị trường nội địa.
Đến lượt đối tác cũng không bỏ lỡ cơ hội. Ngưu theo ngưu, mã lại theo mã!
Muối mua về cho sản xuất công nghiệp, họ cũng bán một phần ra thị trường dưới dạng muối ăn để kiếm lời. Việc làm này kéo dài trong 5 năm liền. Khiến từ lâu, xã hội đặt câu hỏi, nước ta bờ biến hàng nghìn km, không thiếu muối. Vậy mà sao muối ăn thiếu đến nỗi phải nhập? Và cơ quan chức năng bắt đầu nghi ngờ.
Có biết đâu, muối trong nước mắt diêm dân thì thừa thãi?
Thế nhưng, khi mở rộng điều tra, cơ quan chức năng còn phát hiện, chả phải bé xíu như hạt muối mới dễ lọt. Ngay cả những lĩnh vực to và khó nhá như ngành cơ khí, cũng không thoát.
Dù có nhiều chính sách ưu đãi phát triển cơ khí trong nước, nhưng các DN trong nước vẫn bỏ qua những công trình, phần việc DN có thể làm được để thuê nhà thầu nước ngoài...
Hậu quả là ngành cơ khí trong nước lãnh đủ- ngày càng èo uột. Trong khi, "cơ khí chế tạo luôn là nòng cốt của công nghiệp sản xuất nội địa".
Lớn nhất, và mênh mông nhất là thị trường địa ốc vốn rất nhiều lợi nhuận. Nhiều DN hoa mắt và tưởng bở trước những nhà đầu tư ngoại đề ra những dự án tỷ đô. Nhưng vốn huy động nhiều nhất cuối cùng vẫn là từ trong nước.
Cái "ngu phí' thời kinh tế thị trường nó thiên biến vạn hóa, dù các DN, anh nào cũng cứ ngỡ mình "khôn"... nhất làng!
Quá hí hửng hướng ngoại, có những dự án, đất bị chiếm rồi bỏ không, thành dự án treo làm khổ người dân địa phương, làm mất cơ hội việc làm của biết bao người lao động trong nước.
Thế thì nói gì tới các ngành dễ "nát nhừ" như thức ăn chăn nuôi, rau quả, thực phẩm chế biến...
Cứ là nhập khẩu tuốt.
Trong khi kinh tế nội địa, sản phẩm hoa quả, thực phẩm sống... trong nước không tiêu thụ nổi, và cũng chết nghẹt vì sự chèn ép của hàng nhập khẩu.
Một câu hỏi đặt ra, cơ quan quản lý Nhà nước nào đồng tình cấp phép cho các DN, để bóp chết sản xuất trong nước như vậy, với lý do dễ lọt tai là phục vụ sản xuất vì chất lượng các mặt hàng nội địa không đạt yêu cầu?
Phục vụ sản xuất hay phục vụ cái ví tiền của quản lý Nhà nước lẫn DN, bỏ mặc người lao động kiểu "sống chết mặc bay, tiền chúng ông bỏ túi"?
Cái chủ nghĩa mackeno, vì sao lại nảy nở, bắt rễ sâu trong trí não và tâm hồn những DN và quản lý Nhà nước đó đến vậy?
Thực chất nó là gì? Diện mạo nó ra sao? Hãy nghe ông Vũ Tiến Chiến (nguyên Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng TƯ) phát biểu tại ĐH Đảng lần thứ XI: "Đã xuất hiện dấu hiệu liên kết, móc nối giữa chủ doanh nghiệp với một số người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Đảng và Nhà nước để tiêu cực, tham nhũng"
Đến hạt muối bé xíu còn không thoát khỏi thân phận nữa là...Thanks
Hạt muối nhỏ, các DN và quản lý Nhà nước biết "nhìn ra", lợi ích to phết!
Hạt muối mặn, chỉ mặn chát với diêm dân, với lợi ích cộng đồng và quốc gia. Chưa nói đến những lĩnh vực to tát, như đất đai nhá.....
Không biết các cơ quan chức năng, pháp luật của Việt Nam rồi đây sẽ xử lý, ngăn chặn và đẩy lùi hiểm họa Tham nhũng, Lợi ích nhóm đến đâu? Chỉ biết với đà này, anh em nhà tham nhũng và lợi ích nhóm có cơ đẩy lùi..."vận nước".
Chuyện nhãn tiền!
LTS: Làm thế nào để thúc đẩy cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục lâu nay luôn là một chủ đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Đây cũng là một trong những nội dung then chốt được nhiều nhân sĩ, trí thức thời gian qua sôi nổi bàn thảo, góp ý với Đảng và Nhà nước. Để có thêm góc nhìn, Tuần Việt Nam trò chuyện với Giáo sư Hồ Tú Bảo, đồng tác giả Bản ý kiến của nhóm trí thức ở nước ngoài về việc đẩy mạnh cải cách để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Giáo dục chậm tiến do đâu?
Thưa giáo sư Hồ Tú Bảo, vì sao trong Bản Ý kiến gần đây các giáo sư người Việt sống ở nước ngoài lại một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò của giáo dục?
Giáo sư Hồ Tú Bảo Bản Ý kiến "Cải cách toàn diện để phát triển đất nước" trình bày suy nghĩ của chúng tôi về nội lực Việt Nam và cải cách các lĩnh vực thiết yếu của đất nước: kinh tế, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, giáo dục, và đối ngoại.
Nói một cách đại thể thì các lĩnh vực kinh tế, y tế, khoa học và công nghệ chủ yếu liên quan đến phần vật chất của một xã hội, văn hóa chủ yếu liên quan đến phần tinh thần, còn giáo dục là nền tảng của những lĩnh vực kể trên. Giáo dục nhằm đem tri thức đến cho các công dân, và do vậy chất lượng các lĩnh vực kể trên phụ thuộc vào chất lượng của giáo dục. Trong thời buổi kinh tế tri thức và khi khoa học và công nghệ đang thay đổi rất nhanh, một nền giáo dục chất lượng cao là mục tiêu tối thượng của nhiều quốc gia.
Theo tôi có hai điều cần nhấn mạnh. Một là chất lượng giáo dục của chúng ta còn thấp, chưa đáp ứng được vai trò nền tảng cho sự phát triển. Hai là giáo dục chưa được quan tâm và quyết tâm thay đổi và thực hiện, từ cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước, như nó cần phải có. Điều này có lẽ do ảnh hưởng của giáo dục không dễ thấy và tác động của giáo dục không cấp bách như kinh tế chẳng hạn.
Làm công việc giảng dạy và nghiên cứu ở những nơi giáo dục đã thực sự là nền tảng của sự phát triển và luôn gắn bó với giáo dục Việt Nam, chúng tôi muốn một lần nữa nhấn mạnh ý kiến của mình về vai trò của giáo dục trong sự phát triển của đất nước.
Giáo dục đã được các nhà hoạch định chính sách quan tâm nâng lên thành "quốc sách hàng đầu" cách nay gần 20 năm. Nhìn lại quãng thời gian từ bấy đến nay, giáo sư có những nhận xét như thế nào về chất lượng giáo dục, đào tạo của ta?
Tôi xin trích những nhận xét về tình hình giáo dục tại Việt Nam do cả nhóm nhận xét và phân tích trong Bản Ý kiến:
"Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm nhất từ nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc sách hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút, nhất là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt Nam trong những năm qua như sau.
Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến đại học và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam chưa đào tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn ở khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.
Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện tượng làm bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người, sức của; dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa luôn thay đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích và các tệ nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.
Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn thấp, gần đây lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận lại được cấp phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình trạng nói trên dẫn đến hiện tượng "tị nạn giáo dục", khi những người giàu có ở Việt Nam, kể cả các quan chức, đều tìm cách cho con em ra nước ngoài học, thậm chí từ cấp phổ thông.
Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả xã hội, và các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, ... không hề được bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về việc dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ nhiệm chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án, v.v. đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Năm là chế độ phong chức danh phó giáo sư và giáo sư ở đại học còn nhiều bất cập. Các tiêu chuẩn phong chức danh hiện nay không khuyến khích nhà giáo đại học hướng đến những nghiên cứu khoa học đích thực, có ý nghĩa mà thường làm những việc để dễ có "điểm" theo quy định không đâu có của việc phong chức danh. Ngoài ra, các chức danh này lẽ ra chỉ dành cho người giảng dạy đại học hoặc nghiên cứu khoa học, nay được phong ở nhiều ngành cho nhiều người vốn không có vị trí giảng dạy đại học hay nghiên cứu ở cơ quan khoa học, làm cho nhiều quan chức hành chính nhảy vào tham gia công việc của đại học một cách không thích đáng.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của giáo dục đã được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây là chính yếu.
Giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu một tầm nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo dục xác định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt động giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục nặng nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu những người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả. Những cố gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính vụn vặt, chắp vá, nhiều khi do một vài quyết định vội vã và càng làm tình hình thêm rối.
Và, lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô tư toàn tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã hội cha mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy sinh, ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết cho thành bại của giáo dục".
Đề nghị Thủ tướng chịu trách nhiệm trực tiếp về giáo dục
Phát biểu của các nhà lãnh đạo đều quả quyết: "nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người", nhưng thực tế cho thấy nguồn lực này đã không bắt kịp ánh sáng từ cuộc đối mới do đảng khởi xướng. Vậy, theo giáo sư, cần phải làm những gì để nguồn lực con người Việt Nam đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của đất nước?
Đây thật sự là một câu hỏi lớn mà để trả lời cần nhiều nghiên cứu thấu đáo. Giáo dục là chuyện của mọi nhà và được bàn luận hằng ngày trên các phương tiện truyền thông, nên hầu như mọi chuyện đều là "biết rồi, nói mãi". Trong một khuôn khổ hạn chế, chúng tôi chỉ nêu ra vài ý kiến như sau.
Về tổng thể, do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, "chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn." Tất nhiên Thủ tướng hết sức bận rộn, nhưng nếu người đứng đầu Nhà nước trực tiếp lo về giáo dục sẽ giúp giáo dục nhiều cơ hội để thực sự trở thành quốc sách.
Về cải tổ giáo dục, "một trong những nội dung cải cách cấp bách phải là nâng cao vị thế của người thầy, bắt đầu từ đồng lương đủ sống và nuôi gia đình. Từ đó tiến đến việc thiết lập lại sự trung thực trong học tập và thi cử, trả lại tính trong sáng của tuổi trẻ cho học trò, tạo điều kiện cho những tài năng nảy nở. Một nội dung nữa là tôn trọng quyền tự do học thuật và tư tưởng ở đại học cũng như trong các hoạt động trí thức, văn hoá nghệ thuật, tạo ra sức thu hút đối với tuổi trẻ và qua đó giúp thế hệ trẻ có động lực phấn đấu mạnh mẽ, có ý thức công dân cao và hoài bão phát triển đất nước".
Về một số biện pháp cần làm ngay để giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, chúng tôi cho rằng cần "triệt để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm nhất là đến năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai đại học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và trình độ giáo sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại học tiên tiến ở châu Á. Về các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn chỉnh giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để ngăn ngừa hiện tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban hành các sắc thuế khuyến khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực hiện cụ thể trước năm 2015.
Cần tăng cường mở rộng và xây dựng thêm các trường, các khoa liên quan khoa học tự nhiên và công nghệ, xây dựng nhiều trường cao đẳng công nghệ để cung cấp đủ lao động cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới. Hiện nay, một mặt, trong nhiều ngành, sinh viên tốt nghiệp ra truờng không có việc làm, trong khi một số ngành về công nghệ tin học, điện tử, hoá học, kế toán, nông cơ, v.v. thì nguồn cung cấp thiếu hoặc không đủ chất lượng. Chính sách sắp tới cần chú trọng đầu tư xây dựng thêm các ngành ở các lĩnh vực này và cải thiện chương trình, nội dung giảng dạy để nâng cao chất lượng.
Mặt khác, nhu cầu về lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, cao đẳng kế toán,... đang và sẽ tăng nhanh nhưng khả năng cung cấp còn rất hạn chế. Tâm lý coi thường bậc trung cấp và cao đẳng trong xã hội Việt Nam rất lớn. Cần có chính sách khuyến khích học tập trong các bậc học này, chẳng hạn tăng cường chế độ cấp học bổng và quan tâm giới thiệu việc làm cho học viên sau khi ra trường. Tóm lại, cần đổi mới thể chế giáo dục và đào tạo hiện nay mới có thể thực hiện toàn dụng lao động và đẩy mạnh công nghiệp hoá trong thập niên 2010".
Nếu nói thêm một ý kiến riêng, thì tôi cho là cần nhìn cải cách giáo dục theo quan điểm hệ thống, tức giáo dục chỉ có thể cải cách khi đồng thời cải cách những lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, giao thông vận tải, ... Đây cũng chính là ý tưởng xuyên suốt của "Cải cách toàn diện để phát triển đất nước". Chẳng hạn chúng ta không thể giáo dục trẻ em sống tốt đẹp, có văn hóa nếu xung quanh cha mẹ chúng và rất nhiều người lớn làm những điều sai trái. Rồi cũng theo quan điểm hệ thống, cần xem xét để thiết kế lại tổng thể nội dung giáo dục, xuyên suốt các cấp học, điều hòa tất cả các môn học để đào tạo một cách thích hợp nhất các công dân tương lai.
Chỉ dựa vào "trồng cây gì, nuôi con gì" thì không tiến nhanh được
Đẳng cấp của một quốc gia mạnh, ngoài nguồn lực con người đã được đào tạo chất lượng cao còn bao gồm cả việc sở hữu khoa học và công nghệ tiên tiến. Giáo sư có nhận xét như thế nào về tình hình khoa học và công nghệ ở Việt Nam?
Bản Ý kiến đã thảo luận và nêu một số nhận xét về tình hình khoa học và công nghệ (KH&CN) ở Việt Nam. Ở đây tôi nêu thêm một số ý kiến nữa, giới hạn trong nghiên cứu KH&CN.
- Về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của đất nước. Từ hàng chục năm nay chúng ta đã luôn nói về vai trò then chốt của KH&CN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng theo tôi KH&CN chưa thật sự đóng được vai trò đó. Tức trong những gì ta đã làm được đến nay, phần đóng góp của KH&CN còn hết sức khiêm tốn (không kể đến việc dùng các sản phẩm KH&CN nhập khẩu).
Năm 2008, lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Đây là kết quả của thời đổi mới và dựa nhiều vào việc xuất khẩu tài nguyên khoáng sản. Nhưng đổi mới chủ yếu do chúng ta tháo cởi được những ràng buộc vô lý đã có lúc tự buộc vào mình, còn tài nguyên khoáng sản thì đào mãi sẽ đến lúc hết. Chúng ta chủ yếu vẫn sản xuất hàng công nghiệp gia công, nuôi trồng thủy sản, dùng nhiều lao động giản đơn và phụ thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu.
Yếu tố nào giúp ta có thể thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình là câu hỏi khó nhưng ta phải trả lời. Rõ ràng nếu chỉ dựa vào "trồng cây gì, nuôi con gì" thì cả nước không bao giờ tiến nhanh được. Nhìn vào những nước đã vượt lên được như Hàn Quốc hay Singapore, có thể thấy rõ họ đã làm được vậy do nhờ phần lớn vào phát triển khoa học và công nghệ. Ta chắc chắn cũng không có cách khác, vấn đề là làm sao để KH&CN thật sự là yếu tố then chốt đưa đất nước vượt lên.
- Cần thấy "cơ cấu" KH&CN của ta đang khác nhiều so với các nước phát triển, tức ở họ lực lượng nghiên cứu và nội dung KH&CN vừa có trong giới hàn lâm (đại học và các viện nghiên cứu công) vừa có trong giới sản xuất (như viện nghiên cứu của các tập đoàn công nghiệp lớn), thì ở ta KH&CN chủ yếu mới chỉ có trong giới hàn lâm. Muốn KH&CN góp phần vào phát triển đất nước, gây dựng lực lượng và đưa nghiên cứu KH&CN vào các lĩnh vực của sản xuất là một nhiệm vụ cốt yếu.
- Lực lượng và thành quả KH&CN của ta còn rất hạn chế và khoảng cách so với KH&CN tiên tiến trên thế giới còn rất lớn. Một hiện tượng rất đáng suy nghĩ là trong hàng chục năm qua nhà nước đã đào tạo rất nhiều cán bộ KH&CN, nhưng rất ít trong số này hoạt động khoa học được thật sự, còn số đông có "cuộc đời khoa học" không mấy kết quả. Sở dĩ vậy chủ yếu vì các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi trường KH&CN thích hợp để làm việc và sáng tạo.
Mới đây tôi nghe một giáo sư vật lý đầu ngành (đã về hưu) kể rằng nhiều bạn bè cùng thế hệ ông khi về già cảm luôn thấy tiếc và ngậm ngùi vì đã cống hiến cả đời cho khoa học, nhưng suốt mấy chục năm không làm được gì đáng kể do không có môi trường khoa học. Môi trường này gồm ba yếu tố cơ bản: trang thiết bị làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công việc, các chính sách hợp lý kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân vì khoa học.
Chuyện có lương đủ sống và điều kiện làm việc đã được đề cập trong Bản Ý kiến. Đáng nói là nhiều chính sách và cách quản lý KH&CN chưa hợp lý đã làm ảnh hưởng nhiều phát triển của KH&CN. Đơn cử những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư, phó giáo sư của ta không đề cao nghiên cứu chất lượng cao, do vậy đã không khuyến khích nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ hướng con người đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ "điểm" thỏa mãn các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây thật sự là những điều rất bất hợp lý đã được nhiều học giả góp ý hơn hai chục năm, nhưng không được thay đổi. Và không là chuyện nhỏ vì nếu không thay đổi, nó có thể làm chúng ta không bao giờ xây dựng được một nền khoa học đích thực cần cho đất nước.
Vậy theo giáo sư, chúng ta nên ứng xử với khoa học và công nghệ thế nào để nguồn lực này góp phần đưa Việt Nam sớm trở thành quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa?
Thật khó nói cái chuyện lớn này trong ít dòng, tôi chỉ nêu lên hai trong số nhiều điều cốt yếu.
Thứ nhất, kinh phí cho KH&CN phải được tăng lên một cách đáng kể. Tôi nhớ trong một phỏng vấn cách đây mấy tháng Bộ trưởng KH&CN nói đại ý cần đầu tư nhiều gấp 4-5 lần so với hiện nay thì mới kỳ vọng có được các sản phẩm khoa học xứng với mong mỏi của xã hội. Trong Bản Ý kiến chúng tôi cũng chỉ rõ điều này: "Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ năm 2006 chẳng hạn chỉ có 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP. Trong cùng năm, Thái Lan đầu tư 1,79 tỉ USD (0,3% GDP) và Malaysia 1,54 tỉ (0,5% GDP). Đáng chú ý là Trung Quốc đầu tư 1,4% GDP cho khoa học và công nghệ trong năm 2010 và đặt mục tiêu đầu tư 4% GDP vào năm 2015".
Thứ hai, cùng với tăng kinh phí đầu tư, cần thay đổi cách quản lý kinh phí và đề tài KH&CN. Nói ngắn gọn, chỉ cấp kinh phí cho những tập thể có khả năng làm nghiên cứu và ứng dụng KH&CN, và yêu cầu họ làm ra sản phẩm xứng với "đồng tiền bát gạo". Chúng tôi cho rằng: "Hiện nay, các đề tài nghiên cứu cơ bản ở cấp nhà nước do các nhà khoa học xây dựng đã được quản lý khá tốt bởi Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Nhưng với các loại đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển sản xuất ở các cấp - do cơ quan chủ quản ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu nộp đơn xin và các cơ quan chủ quản xét duyệt và thẩm định - lại chưa có sự tham gia đúng mức của các nhà chuyên môn. Vì lý do này nhiều đề tài nghiên cứu của các bộ ngành, địa phương đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa học quốc tế và nhu cầu thực tế."
Vài lời ngắn gọn và hy vọng khi có dịp sẽ thảo luận kỹ hơn.
LTS: Sự xuống cấp về văn hóa xã hội hiện đang là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Các văn kiện quan trọng của Đảng đã chỉ rõ thực trạng này. Các nhân sĩ, trí thức và đông đảo người dân cũng đã lên tiếng không ít lần chia sẻ những suy nghĩ, giải pháp để vực dậy vốn văn hóa - xã hội.
Để góp thêm một góc nhìn, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện với Giáo sư Cao Huy Thuần.
"Mất văn hóa, dân tộc sẽ chỉ là những đứa con rơi"
- Được biết, trong Bản Ý kiến của một số học giả Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài gửi cho các vị lãnh đạo mới đây có góp bàn về việc ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa xã hội. Là một trong những người tham gia góp ý kiến, hẳn giáo sư có nhiều suy nghĩ về vốn văn hóa xã hội, về cái xấu cái tốt trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam?
GS Cao Huy Thuần: Trong Bản Ý kiến gồm 40 trang, bàn về nhiều lĩnh vực, văn hóa chỉ chiếm hơn nửa trang. Đâu phải tình cờ! Ít nhất vì hai lý do. Một là vì nghẹn ngào. Chung quanh chúng ta, từ gia đình, trường học, xí nghiệp, công sở, đường sá, tôn miếu, đền đài, danh lam, thắng cảnh, sông, núi... đâu đâu cũng rơi lệ trước tình trạng mà dư luận gọi chung là "xuống cấp trầm trọng". Xã hội và báo chí đã nói quá nhiều. Chúng tôi tóm gọn nửa trang là nghẹn lời. Nửa trang đó là một tiếng nấc.
Lý do thứ hai là tính bao quát của văn hóa. Văn hóa bao trùm khắp mọi lĩnh vực, ở đâu cũng có, từ khoa học, kỹ thuật cho đến nghệ thuật, văn chương, từ tinh thần cho đến vật chất, từ kinh tế cho đến chót vót chính trị trên cao. Cô không thể khoanh tròn một vùng nhất định, gọi đây là văn hóa, rồi tưởng tượng ra những biện pháp ngăn chận xuống cấp. Mọi mặt đều là văn hóa cả, cho nên biện pháp đề ra phải bao quát cả mọi mặt. Tôi xin nhắc lại sơ lược định nghĩa văn hóa của Unesco: "Văn hóa là toàn thể những nét riêng biệt, về tâm linh cũng như về vật chất, trí thức cũng như tình cảm, tạo thành đặc tính của một xã hội, bao gồm không những nghệ thuật và văn chương mà còn cả cách sống, những quyền căn bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập quán và tín ngưỡng".
Ấy là tôi chưa nói đến lĩnh vực thiết thân nhất của mọi nguời dân hiện nay ở Việt nam, chị em ruột với văn hóa, cũng đang bị "xuống cấp trầm trọng", cũng đang mang tai biến tật nguyền, cũng đang chờ thuốc thần của Hải Thượng Lãn Ông: giáo dục. Giáo dục của chúng ta đang rơi xuống vực thẳm, kéo văn hóa rơi theo. Không vớt được giáo dục, đừng hòng cứu nổi văn hóa. Do đó, bản ý kiến gộp chung văn hóa và giáo dục làm một, thử bốc vài thang thuốc Nam xem sinh khí có hồi phục được chút nào chăng.
- "Xuống cấp" có nghĩa là "mất vốn"? Mất vốn dần dần? Mất dần dần cái tốt? Nhiễm dần dần cái xấu? Do đâu mà cái xấu chiếm dần cái tốt?
Cô dùng chữ "vốn". Tôi e rằng phải dùng chữ "gia tài". Văn hóa là kết quả của hàng ngàn năm lịch sử, là gia tài sống của cả dân tộc. Mất gia tài đó thì dân tộc chỉ còn là lũ con rơi vô thừa nhận. Nhưng tôi buồn mà không bi quan. Tôi không nghĩ chúng ta mất vốn. Để tránh đi vào lý thuyết khô khan, tôi xin nhắc lại một ví dụ cụ thể, một chi tiết nhỏ nhặt mà Tuần Việt Nam đã cùng chứng kiến với chúng tôi.
Hồi tháng 5 năm ngoái, Tuần Việt Nam hợp tác với trung tâm Liễu Quán để tổ chức một Tuần lễ văn hóa ở Huế, kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Con đường ven theo bờ sông Hương, chạy dài trước trung tâm Liễu Quán được trang trí bằng một vườn cảnh thôn quê, với rau xanh, quả ngọt, ớt, chanh, cây chuối, cây đu đủ, bẹ cải, bắp su, hoa lá đủ màu, rực rỡ. Suốt cả một tuần, khách viếng cảnh chen vai thích cánh trên đường hoa cả chục ngàn người, ban ngày cũng như ban đêm, không một cọng hoa bị ngắt, không một trái ớt bị mất. Tại sao vậy? Tại sao hoa đào mang về từ Nhật đã bị trộm cướp dẫm nát ở chỗ khác, mà ở chỗ này trái đu đủ vẫn ung dung nặng tình với gió sông Hương? Bài học không phải là chỗ này mất vốn, chỗ kia còn vốn.
Tôi nghĩ khác và đã nói với Tuần Việt Nam: ở đâu có tính tự giác thì ở đấy có văn hóa. Mà tính tự giác thì không phải do bản năng sợ mà có. Con đường hoa ấy có ai canh gác đâu? Tính tự giác là do nếp nhà, mà nếp nhà là kết quả từ ngàn năm giáo dục, giáo dục trong gia đình, giáo dục trong trường học, giáo dục trong sách giáo khoa vỡ lòng. Ngày nay, giáo dục ấy vắng bóng trong lĩnh vực công, nhưng xã hội còn giữ. Vậy thì hãy tin ở xã hội mà nhờ. Khi nhà nước biết xã hội tự quản được và tự quản tốt, hãy giao cho xã hội tự quản. Một nhà nước mạnh không phải là một nhà nước làm tất cả mọi việc; đó là một nhà nước biết tin, biết chia việc cho xã hội, biết cư xử với xã hội như với một người lớn, không phải như với một vị thành niên.
Ấy là chuyện nhỏ về một con đường thôi, nhưng đó là văn hóa, đó là chính sách văn hóa. Văn hóa là tương quan: tương quan giữa con người với chính mình, tương quan giữa con người với người khác, tương quan giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, với môi trường sống, với đất nước, tổ quốc. Văn hóa là một tổng thể những tương quan, như mọi sông, mọi suối, mọi rạch, mọi khe đều chảy vào biển. Nhà nước không thể thống lĩnh tất cả mọi tương quan, lại càng không thể thống lĩnh mọi tương quan với còi và dùi cui.
Hãy tạo điều kiện để trả luân lý về lại cho gia đình, đạo đức về lại cho trường học, truyền thống về lại cho tổ tiên, tự giác về lại cho xã hội, như thành phố Huế đã biết trả lại con đường hoa cho Liễu Quán, cho khách nhàn du. Xã hội thừa sức làm mọi chuyện chân thiện mỹ. Chỉ cần nhà nước sáng suốt và biết khiêm tốn đóng vai hỗ trợ khi cần thiết.
- Ngạn ngữ Pháp nói: "La peur du gendarme est le début de la sagesse" (Biết sợ cảnh sát là bước đầu của khôn ngoan). Có đúng không ạ?
Đúng quá! Không có cảnh sát thì ngay xã hội cũng không còn, nói gì tự quản. Trên kia, tôi đã kể nhiều lĩnh vực thiết thân với văn hóa. Bây giờ tôi phải nhấn mạnh một lĩnh vực nữa, cũng máu mũ ruột thịt: luật pháp. Luật pháp là cây dùi cui có văn hóa. Nó gõ vào đầu cái xấu, cái ác, cái bất công, cái phi pháp, cái đáng trừng trị. Bản Ý kiến nói rõ: nó là tối thượng. Câu châm ngôn của nó là: "Cái gì mà luật không cấm thì làm được". Điều đó cũng có nghĩa là: cái gì mà luật cấm thì đừng có làm, làm thì đi nhà mát. Một nước văn minh là một nước từ trên xuống dưới gối đầu trên châm ngôn ấy mà ngủ ngon. Còn nếu châm ngôn ấy không có thì người ngủ ngon trên gối là ông ba kẹ tham nhũng.
Nói lông bông như vậy để trả lời về "cái tốt" "cái xấu" của cô. Cái xấu thì luật pháp phải trừng trị. Cái tốt thì giáo dục phải vun trồng. Bắt đầu như vậy là bước đầu trả lại nhan sắc cho bộ mặt văn hóa Việt Nam. Luật pháp nghiêm minh, giáo dục chân chính: đó là điều kiện tất yếu tối thiểu.
- Như vậy, luật pháp là phần việc của nhà nước, giáo dục là phần việc của xã hội?
Không hẳn! Không bao giờ hai xã hội ấy - xã hội chính trị và xã hội dân sự - đứng tách bạch ra hai bên, với biên giới rạch ròi ở giữa. Hai bên thông thương và hỗ trợ cho nhau. Cũng để tránh lý thuyết khô khan, tôi xin kể một điều tra khoa học được nói đến trong các sách về xã hội học cách đây khá lâu. Điều tra được tổ chức trên hai nhóm trẻ em cùng tuổi, một ở Pháp và một ở Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là: "Nếu có một bọn côn đồ dọa đến đưổi các em, không cho đến chơi trong công viên của các em nữa, các em sẽ làm gì?" Nhóm trẻ em ở Pháp trả lời: đến tố cáo với cảnh sát và yêu cầu can thiệp. Nhóm trẻ em ở Mỹ trả lời: tự tổ chức canh gác để không cho bọn côn đồ đến chiếm. Điều tra đó được làm để xác nhận sự khác biệt giữa hai thái độ văn hóa, do lịch sử hai dân tộc tạo nên: một bên là văn hóa tập quyền, một bên là văn hóa dân chủ. Dù xã hội công dân ở Mỹ phát triển đến đâu đi nữa, trẻ em ở Mỹ cũng biết rằng nếu các em canh gác mà bọn côn đồ cứ đến chiếm như thường thì cảnh sát vẫn có đấy thôi. Nhà nước đâu có đứng khoanh tay làm ngơ!
Đồng tiền cũng biết tu chứ!
- Thưa giáo sư, sau 25 năm đổi mới và mở cửa hội nhập với thế giới, kinh tế khởi sắc hơn, sự tiếp cận của người dân đối với những cái mới cũng trở nên cởi mở hơn nhiều so với trước kia, thế mà văn hóa lại xuống cấp. Ông lý giải ra sao cho nghịch lý này?
Nếu kinh tế lên, mà tất cả cái khác đều xuống cấp, văn hóa lên cấp sao được? Nhưng để khỏi phải nói lại những điều tôi vừa nói, tôi nêu thêm ở đây một cách giải thích nữa, tất nhiên không phải là câu trả lời duy nhất. Tôi thường đọc sách Phật, thấy nói như thế này: người giàu sang quá thì khó tu, mà người nghèo khổ quá cũng vậy. Người nghèo khổ quá thì đêm ngày lo miếng cơm manh áo chưa xong, thì giờ tâm trí đâu nữa mà tu? Còn người giàu sang quá thì ham hưởng thụ, có tiền mua tiên (nữ) cũng được. Đức Phật nói thế là cốt khuyến khích nhà cầm quyền làm thế nào để nâng cao mực sống của người nghèo lên, giống như dân gian ta nói "có thực mới vực được đạo". Ngài nói thế cũng cốt khuyên nhủ người giàu đừng tham vinh hoa phú quý.
Nhưng, từ nhận xét thông thường đó, ta thấy gì trong hiện trạng Việt Nam? Kinh tế có lên, mực sống có lên, đúng thế, nhưng công bằng xã hội quá chênh lệch. Người nghèo vẫn nghèo, càng nghèo, so với người giàu càng giàu, càng giàu sụ, giàu một cách không ai hiểu nỗi. Cách làm tiền và tiêu tiền của họ phung phí, vung vãi, tựa như tiền là giấy lộn, cũng không ai hiểu nỗi. Tiền ở đâu ra, chỉ mỗi câu hỏi ấy đủ rưới ảnh hưỏng xấu tràn lan trên xã hội, bởi vì tiền kiếm được bằng mồ hôi nước mắt, bằng giá trị lao động, chẳng thấm vào đâu so với tiền bất chính. Tiền này đi đến đâu, đạo đức suy đồi đến đó, giá trị nào cũng có thể đem ra mua bán.
Chắc cô sẽ hỏi: vậy giới trung lưu, tầng lớp xã hội "dễ tu" nhất ở giữa, thì sao? Có phải tất cả giá trị văn hóa nằm ở đấy không? Thì cô thấy đó, họ chạy theo đồng lương hụt hơi, làm chơi ăn thiệt, ăn lương có khác gì ăn ảo tưởng đâu. Vậy thì thượng, hạ, trung, ba giới đều chạy theo tiền, tiền là ma lực hút hết máu mủ sinh khí của mọi giới trong xã hội, là giá trị duy nhất đặt trên đầu. Văn hóa còn là cái gì? Bởi vậy, trong bản ý kiến, đồng lương là một vấn đề hàng đầu phải giải quyết, nếu không, đừng hòng cải cách đại học, trung học, tiểu học, mẫu giáo, giáo dục, đạo đức, và tất nhiên tham nhũng.
- Đồng tiền có biết tu không?
Biết! Mà tu rất giỏi! Đắc đạo như chơi! Ở nước Mỹ, bao nhiêu nhà giàu trọng truyền thống tặng tiền cho các trường đại học để đại học Mỹ vẫn dẫn đầu văn hóa đại học trên thế giới. Gần đây, ai cũng biết, ông Bill Gates đem một phần tài sản để làm từ thiện. Nhiều người bắt chước ông. Ở Việt Nam, tôi bắt đầu có cảm tưởng các đại gia cũng muốn cho đồng tiền đi tu và tôi tán dương khuynh hướng này. Trung tâm văn hóa Liễu Quán được tái thiết là nhờ tiền hiến cúng âm thầm của một đại gia ẩn danh. Văn hóa bố thí của Phật giáo là con đường tu của đồng tiền biết sám hối. Chỉ tiếc một điều là ý nghĩa của bố thí chưa được hiểu rõ, cần phải biết rằng bố thí cho những công trình từ thiện, văn hóa, cũng phước đức như hiến tặng chùa chiền.
Càng mở cửa càng phải biết mình là ai - Thưa giáo sư, có nhiều ý kiến đã lên tiếng cảnh báo về nguy cơ mất văn hóa truyền thống, hoặc văn hóa ta bị xâm lăng, thậm chí bị nô dịch. Theo giáo sư, liệu có phải chúng ta đã quá trầm trọng hóa vấn đề?
Tôi chưa trả lời hết câu hỏi trên về sự cởi mở để tiếp thu cái mới. Bây giờ xin gộp với câu hỏi này thành một vấn đề chung. Với làn sóng toàn cầu hóa, không nền văn hóa nào có thể đóng được, kể cả Myanmar trước đây. Dù muốn dù không, ai cũng phải mở. Vậy, ta tiếp thu cái mới gì khi mở? Cần phải phân biệt kỹ thuật với các yếu tố văn hóa khác. Kỹ thuật làm đồng bộ thế giới. Thang máy hiệu ấy ở Hà Nội cũng là thang máy ta đã bước vào ở Thái Lan, ở Phi, ở Singapore, ở Pháp. Cái máy tính tôi đang làm việc đây y chang máy của đồng nghiệp của tôi ở Mỹ. Cô nhân viên tính tiền ở các siêu thị cũng quẹt một cái trên mã vạch giống như các đồng nghiệp của cô bên Angola. Kỹ thuật là một hình thái của văn hóa, nhưng có đời sống ngắn. Có súng rồi thì chẳng ai dùng cung tên. Lái ô tô rồi thì chẳng ai du lịch bằng xe tứ mã.
Văn hóa thì ngược lại, dài dằng dặc hàng mấy nghìn năm. Kỹ thuật không cần biết phân chia đất đai, lãnh thổ, biên giới: nó nối kết nhân loại làm một. Tôi ở Pháp nấu cơm bằng nồi điện giống như gia đình tôi ở Việt Nam. Ngược lại, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thuyết... thì có đất đai, lãnh thổ rành rọt. Ngày rằm, mồng một, sáng sớm trên các đường lộ Sài Gòn, xe thổ mộ chở đầy hoa; đố ai tìm ra được quang cảnh đó ở Nga, ở Ý.
Nhập cái mới về kỹ thuật tuy cũng thay đổi lối sống, nhưng ta không sống với kỹ thuật. Giữa tôi và cái máy tính trước mặt, có ai gần gũi hơn, có ai gần gũi hàng ngày như vậy? Nhưng nó với tôi đâu có tình cảm gắn bó gì. Đường sắt, xa lộ nối kết các nước châu Âu giăng đầy như mạng nhện, nhưng mấy chục năm rồi, ý thức châu Âu đã có đâu? Ta không sống trong kỹ thuật. Ta sống trong ngôn ngữ. Ta sống trong văn hóa. Ta yêu tiếng "em" ngọt lịm trên môi.
Kết luận: kỹ thuật có thể kết hợp thế giới, nối vòng tay lớn với cả nhân loại, nhưng văn hóa là miếng đất tự nhiên trên đó không thể không có đối chọi. Văn hóa là đối chọi, vì đó là nơi un đúc ra bản sắc, và không thể có bản sắc nếu không có một va chạm tối thiểu với một văn hóa khác. Dù ai nói gì đi nữa, đã nói văn hóa thì bao giờ cũng có một chúng ta chống lại chúng nó, giống như thông thường người ta định nghĩa tôi bằng cách phân biệt với cái không phải là tôi.
- Ấy là chỉ mới nói đến kỹ thuật, chưa động đến những hình thức xâm nhập văn hóa mà ai cũng thấy trên màn hình, qua phim ảnh, y phục, thời trang, hoặc sách báo...
Mạnh như nước Pháp mà cũng phải nói rõ: sản phẩm văn hóa không thể được xem như các sản phẩm tiêu thụ khác, phải được bảo vệ, phải có quy chế riêng, trước sự tấn công của các văn hóa mạnh hơn. Nước nào cũng phải bảo vệ văn hóa của mình, nếu không thì truyền thống mất hết, tổ tiên chết lại lần thứ hai. Càng mở cửa càng phải biết mình là gì, mình là ai.
- Thế nhưng khi mở cửa mình cũng hấp thụ được cái tốt chứ?
Đâu có phải bây giờ ta mới mở cửa? Ngay từ khi độc lập, ta đã mở cửa rồi. Ta mở cửa từ 1945. Ta mở cửa với Tuyên ngôn Độc lập. Hoành tráng! Phải là một Hồ Chí Minh mới mở cửa xuất chúng như thế. Sang sảng, tiếng của Chủ tịch vang dội quãng trường Ba Đình : "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Ấy là tư tưởng của Jefferson, tư tưởng tiến bộ nhất của thế giới hồi đó.
Phải công bằng mà nói: ngày nay, ta cũng đã mở cửa đón hương thơm cỏ lạ của văn hóa thế giới tiến bộ đấy chứ. "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" chẳng phải toàn là những giá trị cao đẹp nhất của loài người đấy sao? Bản ý kiến tán dương tiêu chí đó, xác quyết: chừng ấy thôi mà thực hiện cho kỳ được, vậy là dân tộc ta có phước.
- Như vậy truyền thống không tương phản với hiện đại?
Hiện đại hóa truyền thống và truyền thống hóa hiện đại là thiên tài của Hồ Chí Minh. Nên học tập cái tài đó để đừng đánh mất truyền thống mà cũng đừng bảo thủ cái đáng vứt đi. Tôi trích thêm ở đây câu viết của một đại học giả Pháp, Lévi-Strauss, nhà nhân chủng học lừng danh thế giới, người cực lực bênh vực những nền văn minh mà ta gọi là sơ khai. "Văn minh bao hàm sự sống chung giữa các nền văn hóa phô bày ra với nhau đến mức tối đa những dị biệt của mình, và văn minh chính là sự sống chung ấy". Phải biết bảo vệ dị biệt - nghĩa là bản sắc - cho đến tối đa, nhưng phải biết sống chung. Như vậy thì mới không văn hóa nào đô hộ được mình.
Hãy là những Nguyễn Trãi trong văn hóa
- Nhiều người trẻ cho biết họ lúng túng khi đi tìm đức tin và lý tưởng cho mình. Giáo sư suy nghĩ thế nào về thực tế này?
Tôi mong giới trẻ hãy đọc lại Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Nguyễn Trải ở Côn Sơn. Con người đẹp lạ lùng. Người trí thức tinh hoa của lịch sử, của văn hóa Việt Nam. Giữa một xã hội mất đạo đức, một xã hội chỉ biết có tiền, một xã hội mà kiến thức không ra ngoài ba chữ GDP, giới trẻ hãy đọc mấy câu đầu của Bình Ngô Đại Cáo để suy ngẫm: "Nước ta là một nước văn hiến". Mới đại thắng xong, Nguyễn Trãi không mở đầu bằng phô trương sức mạnh quân sự mà bằng một định nghĩa không ngờ: đặt văn hóa lên giá trị thượng đỉnh. Nấc thang cao nhất để ta đứng trên đó mà cư xử ngang nhau với phương Bắc là nấc thang văn hóa. Cũng trên nấc thang đó, Nguyễn Trải khẳng định: văn hóa của ta khác văn hóa của ngươi. Cái rốn tư tưởng của ta nằm ở bên này bờ cõi của ta:
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Đó là tuyên ngôn độc lập văn hóa mà xin giới trẻ đừng quên. Bởi vì, chỉ mới mấy ngày nay thôi, ai đọc báo cũng biết thông tin đến từ Ủy ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ đã họp từ ngày 15 đến 18 tháng 10 và đã hạ quyết nghị biến Trung Quốc thành đại cường văn hóa. Họ nói: "Xí nghiệp kinh tế của ta đứng vào hàng 500 xí nghiệp đầu sổ của thế giới, nhưng ta không có một xí nghiệp văn hóa nào được thế giới biết đến. Người Mỹ chiếm thị trường của ta với những phim lấy hứng từ lịch sử Trung Quốc, nhưng Trung Quốc là đứng vào hàng số không về tính sáng tạo. Lợi tức của 500 xí nghiệp xuất bản Trung Quốc thấp hơn lợi tức của một nhà xuất bản Đức duy nhất".
Trung Quốc đã có Viện Khổng Tử ở khắp nơi. Họ vung tiền ra để đưa tin trên thế giới. Sản phẩm văn hóa của họ tràn ngập các nước chung quanh. Thế vẫn chưa đủ. Bởi vì họ biết: văn hóa là sức mạnh mềm vô cùng hữu hiệu.
Hãy là Nguyễn Trãi, các bạn trẻ của tôi!
Lời toà soạn: Thưa quí vị độc giả Tuần Việt Nam, dòng thời sự chủ lưu hiện nay đang tập trung vào câu chuyện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Thực tiễn phát triển đất nước hơn hai chục năm qua đã cho thấy, nếu đứng trước một bước ngoặt mới, nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới mạnh mẽ thì không thể đưa đất nước bật lên được.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ III vừa qua khẳng định: "Một nội dung mới rất quan trọng được hội nghị trung ương lần này xem xét và quyết định là phải tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng".
Giới nghiên cứu, các nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước cũng đã có những phân tích về vấn đề này. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam trò chuyện với GS. Trần Văn Thọ (Đại học Wesada, Nhật Bản), tác giả của nhiều bài nghiên cứu, phân tích chất lượng về kinh tế Việt Nam, và là đồng tác giả Bản ý kiến của nhóm trí thức ở nước ngoài về việc đẩy mạnh cải cách để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Tái cấu trúc theo hướng nào?
- Thưa giáo sư, các nhà quản lý và giới nghiên cứu trong nước gần đây bàn tán sôi nổi về vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Hội nghị Trung ương vừa qua nhấn mạnh nhiều lần điểm này. Xin hỏi nhận định của ông về cơ cấu kinh tế hiện nay?
GS Trần Văn Thọ: Còn quá sớm để nhận định nhưng chúng tôi cho rằng Hội nghị Trung ương vừa rồi đã phát đi một số tín hiệu tích cực, cho thấy bước đầu có nhận thức chung trong giới lãnh đạo về nhu cấu cấp thiết phải cải cách toàn diện để đất nước tiếp tục phát triển.
Đó cũng là nội dung của bản ý kiến mà một số anh em trí thức đang sống và làm việc ở nước ngoài, trong đó có tôi, mới đây đã gửi tới các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước và đã nhận được những phản hồi tích cực.
Một trong những điểm nổi bật nhất là trong khi kinh tế Việt Nam hội nhập rất sâu vào nền kinh tế thế giới, nhất là hội nhập mạnh vào khu vực Đông Á là nơi đang diễn ra cạnh tranh gay gắt, nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế rất yếu. Điều này phản ánh trong cơ cấu xuất nhập khẩu, trong cán cân ngoại thương ngày càng nhập siêu lớn.
Trong thời đại toàn cầu hóa và khu vực hóa, Việt Nam đã đi theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường, và không khẩn trương phát triển sâu và rộng các ngành công nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.
Mặt khác, cơ chế và chính sách của Việt Nam cho đến nay đã gây nên những lãng phí về nguồn lực và làm nền kinh tế kém hiệu suất, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư công, trong việc ưu đãi các tập đoàn kinh tế trong khi các tập đoàn này hầu như không cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
Một hậu quả khác của chính sách và cơ chế hiện nay là các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn về huy động vốn, đời sống của người lao động cũng khó khăn, và xã hội không tạo đủ công ăn việc làm khiến nhiều người phải ra nước ngoài tìm việc một cách miễn cưỡng.
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn của ta hiện nay cũng có nhiều bất cập làm cho đời sống nông dân chậm cải thiện và làm cho cả nền kinh tế phát triển thiếu cân đối. Đặc biệt chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát huy được sức sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho nhiều người có chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất nước để làm giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai thác ở những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng.
Luật Đất đai coi đất đai là sở hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định. Đây chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát triển công nghiệp, sân golf, hay xây nhà kinh doanh mà hầu hết các lĩnh vực này đều không mang lại hiệu quả. Hạ tầng nông thôn và thị trường lao động chậm cải thiện cũng cản trở việc công nghiệp hóa nông thôn và dịch chuyển lao động sang các lĩnh vực phi nông nghiệp.
Vậy theo ông, đâu là phương hướng, chiến lược cần có? Chính sách tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng phải như thế nào?
Đây là vấn đề khá rộng và lớn, ở đây chỉ xin nói đến mấy điểm chúng tôi cho là quan trọng nhất.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Chiến lược phát triển phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng và chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng cao qua giáo dục và đào tạo, qua khả năng làm chủ công nghệ.
Hiện nay xuất khẩu lao động và phụ nữ muốn ra nước ngoài lập gia đình vì lý do kinh tế đang là hiện tượng làm bức xúc người dân và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên thế giới. Chúng tôi đề nghị nhà nước đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phải thực hiện toàn dụng lao động, không còn ai phải miễn cưỡng ra nước ngoài chỉ vì sinh kế.
Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải theo hướng ấy.
Chúng tôi đề nghị hoãn kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc vì chưa cần thiết, tốn kém lớn và đã được chứng minh bằng các phân tích khoa học là không có hiệu quả. Thay vào đó, cần tu bổ nâng cấp đường sắt Thống Nhất, mở rộng mạng lưới đường sắt phổ thông đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Bắc, đồng thời xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam và xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ nối nông thôn với đường sắt và đường cao tốc này, nhất là nối nông thôn với các đô thị gần đường cao tốc. Kết cấu hạ tầng như vậy mới thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn.
Liên quan đến phát triển nông thôn, việc cải cách chế độ hạn điền cần được đẩy mạnh. Chế độ hộ khẩu đã được cải thiện nhiều nhưng mỗi đô thị lại có các quy chế riêng, cần cải cách theo hướng tự do hóa việc thay đổi chỗ ở hơn nữa để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn.
Với sự phân tán, manh mún của ruộng đất hiện nay, việc tăng năng suất nông nghiệp gặp khó khăn. Tăng năng suất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Đối với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành phố lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên nhân là do thị trường lao động chưa phát triển, cung và cầu không gặp nhau.
Một nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh nghiệp,...) không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Biện pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm chính sách ngắn hạn (phát triển thị trường lao động) và chính sách trung dài hạn (nâng cao chất lượng lao động, tăng cường giáo dục nghề nghiệp). Chính quyền địa phương ở nông thôn cần tích cực hơn nữa trong lĩnh vực này.
Một vấn đề khác là cải cách doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn. Cần đặt các doanh nghiệp đó trong khung cảnh chung của luật pháp, xóa bỏ việc để hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh nhằm hạn chế sự thao túng của các nhóm lợi ích.
Doanh nghiệp quốc doanh dùng tiền của dân và nhằm phục vụ dân, do đó phải có tiếng nói của đại diện nhân dân. Hội đồng quản trị có đại diện của dân do các tổ chức hội chuyên nghiệp và Mặt trận Tổ quốc đề cử, có đại diện của người tiêu dùng chính do các ngành sử dụng đề cử, có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp do các hội chuyên gia đề cử.
Để cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực sự phục vụ nhân dân thì phải có các tổ chức chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc. Đặc biệt, phải công khai, minh bạch trong việc cấp vốn, việc cấp và sử dụng các nguồn lực quốc gia cho các doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài những trường hợp đặc biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước đã được công khai, minh bạch, chính sách cần bảo đảm công bằng cơ hội, bảo đảm hiệu quả sử dụng và không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt giữa các công ty, kiểm soát và hạn chế việc sử dụng lãng phí các nguồn lực quốc gia.
Trong cơ chế thị trường, những chính sách vừa nói được thực thi triệt để thì nền kinh tế sẽ tự cái cấu trúc theo hướng hiệu suất và phát triển bền vững.
Việt Nam hiện nay cũng có những cơ quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay Bộ Công thương nhưng quyền hạn liên quan tới vấn đề này bị phân tán, ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, vì vậy thường khó có thể đề xuất được những chính sách hiệu quả, hoặc do phải cân nhắc lợi ích của quá nhiều đối tượng nên những nội dung thống nhất được cũng mang tính thỏa hiệp, chung chung.
Để giải quyết tình trạng này, chúng tôi đề nghị nhà nước cần tập trung những chuyên gia có trình độ, thành lập một bộ phận chuyên trách để xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức.
Cải cách tiền lương và thi tuyển quan chức
Trong lĩnh vực kinh tế, ngoài vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế, còn điểm gì khác mà ông thấy quan trọng?
Có một vấn đề rất quan trọng nhưng không giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan đến mọi mặt của xã hội. Đó là chúng ta cần một chính phủ mạnh và hiệu quả ở cả trung ương và địa phương. Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt lõi của nhiều vấn đề.
Cải cách chế độ tiền lương là một việc tuy khó nhưng cấp bách và không thể trì hoãn, vì nếu không sẽ không thể giải quyết được vấn đề nào khác. Thiết nghĩ, đây là vấn đề nan giải nhưng không hẳn là không có giải pháp nếu nhà nước thực lòng quyết tâm. Trước mắt, chúng tôi đề khởi một số nội dung cải cách như sau:
Thứ nhất, hiện tượng phổ biến hiện nay là tiền lương chỉ chiếm một phần nhỏ trong thu nhập của quan chức, công chức, thầy giáo, v.v.. Do đó, trước tiên phải minh bạch hóa các nguồn thu nhập này và lần lượt đưa vào lương.
Thứ hai, cải cách thuế để tăng thu ngân sách. Đặc biệt cần đánh thuế lưu thông bất động sản, đánh thuế suất cao đối với những người sở hữu nhiều bất động sản, và đánh thuế thừa kế tài sản.
Thứ ba, tăng tỉ lệ tiền lương trong tổng thu ngân sách. Trước mắt giảm tỉ lệ đầu tư công lấy từ ngân sách, hoãn những dự án đầu tư lớn cần nhiều vốn nhưng chưa thật cần thiết..
Thứ tư, tinh giảm bộ máy công quyền ở trung ương và địa phương.
Nhà nước cần lập ngay một ban chuyên trách về cải cách tiền lương gồm các chuyên gia kinh tế, tài chính, hành chính. Ban chuyên trách này sẽ khẩn trương nghiên cứu, xem xét 4 nội dung cải cách nói trên, để trong thời gian ngắn đưa ra đề án cải cách khả thi.
Quan chức, công chức phải là những người được tuyển chọn nghiêm túc qua các kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình họ phải được bảo đảm bằng tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ máy công quyền.
Nội dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống cũng cần chú trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ cao cấp hơn và thêm các chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự khó khăn phải vượt qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng tự trọng của quan chức, tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng.
Việc thi tuyển quan chức còn có tác dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình đẳng thi thố tài năng cho việc nước. Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan chức cần được thực hiện trong vòng 3-4 năm tới.
Đó là con bệnh Tham nhũng
Quan "tham" và dân "gian"
Báo cáo của Tổng Thanh tra CP tại phiên họp Quốc hội ngày 24/10 mới đây cho biết, từ 1/10/ 2010 đến 31/7/2011, cơ quan điều tra các cấp đã khởi tố 163 vụ tham nhũng (có 349 bị can). Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp đã truy tố 194 vụ tham nhũng (391 bị can). Tòa án Nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 171 vụ (409 bị can)
Đã có 67 trường hợp người đứng đầu bị xử lý kỷ luật vì thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong lĩnh vực quản lý, trong đó cách chức 14 người, cảnh cáo 16, khiển trách 34...
Thế nhưng, thảo luận về tình hình thực hiện công tác này, nhiều Ủy viên Thường vụ QH băn khoăn, con số thất thoát do tham nhũng lên tới 11.400 tỉ đồng, chỉ mới thu hồi được hơn 300 tỉ (2,6%), một tỷ lệ hơi bị... bèo. Chính phủ cũng nhận định, tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp.
Đẩy lùi tham nhũng là đòi hỏi khẩn thiết của nhân dân
Cũng xin nói thẳng, tham nhũng không phải là "nỗi khổ của riêng ai".
Nó là căn bệnh của mọi quốc gia, từ tiên tiến văn minh, đến chậm tiến. Nhưng chắc chắn nó sẽ giảm bớt, nếu cơ chế quản lý xã hội quốc gia đó tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, và thiết kế phù hợp quy luật phát triển.
Đáng chú ý, tham nhũng giờ cũng không buông tha ai.
Không chỉ các quan chức có chức quyền bị tiền ăn, mà tiền còn ăn ngay chính cán bộ, nhân viên cơ quan công quyền trong lĩnh vực hành chính các cấp, thầy giáo, thầy thuốc, cảnh sát giao thông, tòa án... Chả thế từ lâu có câu chí lý- quan tham, dân gian.
Tham nhũng được khái quát, nâng lên nên thành ...văn hóa- "văn hóa tham nhũng"- một thứ văn hóa đáng tủi hổ.
Để hiện tượng tham nhũng, ăn tiền mang tính hệ thống, chắc chắn có vấn đề khiếm khuyết của cơ chế quản lý xã hội.
Người viết bài tâm đắc với ý kiến của GS. TS Đỗ Thế Tùng (Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh) phát biểu tại hội thảo do Tạp chí Cộng sản và Viện khoa học Xã hội VN tổ chức: Nếu như tham nhũng không được đẩy lùi thì nên hiểu là tham nhũng nằm ngay trong cơ chế, đang là cơ chế "nuôi dưỡng" chứ không phải đẩy lùi tham nhũng!
Tham nhũng được khái quát, nâng lên nên thành ...văn hóa- "văn hóa tham nhũng". Ảnh minh họa |
Đó là cơ chế xin- cho. Cơ chế quản lý kiểu này cho con người quyền quyết định, ban cho quá lớn, nhưng lại thiếu sự giám sát, kiếm soát để kiềm chế lạm quyền. Điều đó tạo ra điều kiện tốt để tham nhũng có điểm tựa thêm... sức bật.
Đó là sự ưu đãi độc quyền, không có đối thủ cạnh tranh trong kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Nhà nước. Ở đây, lợi ích nhóm gắn với tham nhũng như bóng với hình. Sớm muộn, các DNNN phải được thay đổi cách thức quản trị theo thông lệ quốc tế, chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính xin- cho như hiện nay.
Đó là tệ mua bán chức quyền, là quy định quy định công khai minh bạch tài sản quan chức, nhưng lại có "vùng cấm"...
Đó là chưa có Luật Bảo vệ nhân chứng. Trong khi các quy định hiện hành bảo vệ người tố cáo tham nhũng còn chung chung, chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo đảm an toàn cho người tố giác tham nhũng.
Người Việt nào cũng nằm lòng câu triết lý sống này: "Đấu tranh, tránh đâu"? Một câu hỏi chắc chắn không có câu trả lời! Vì thế, luôn tồn tại trong xã hội nghịch lý chua chát: Người ngay sợ kẻ gian, người tốt sợ kẻ xấu, người lương thiện sợ kẻ lưu manh.
Mặt khác, bộ máy phòng chống tham nhũng từ cấp tỉnh trở xuống, lại do Chủ tịch UBND tỉnh - người có thẩm quyền ban phát xin- cho, nơi luôn tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, quyết định và chỉ đạo. Với mô hình vừa đá bóng vừa thổi còi, ngay từ đầu, đã có nhiều tranh cãi tại Quốc hội về hiệu quả của nó.
Chẳng thế mà, mới đây Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh đã đề xuất đổi vai- trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cấp tỉnh hiện nay, phải là Chủ tịch HĐND, chứ không phải Chủ tịch UBND tỉnh, hoặc cần có một cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập. Dư luận đang chờ đợi xem liệu những đề xuất mới này có được chấp nhận.
Chợt nhớ điệp khúc một ca từ hài hước: "Vì sao anh không nói. Vì sao anh không n...ó...i...í...í..."
Con bệnh tham nhũng còn có một kẻ họ hàng thân thiết, rất gần gũi. Nó không nham nhở về khái niệm như tham nhũng, mà có khi rất mỹ miều, bóng lộn, chải chuốt, nhân danh tập thể. Nhưng thực chất cũng mang bản chất tham lam phạm pháp, ích kỷ, chỉ biết mình...
Nó là Lợi ích nhóm
Hạt muối nhỏ- lợi ích to
Ngày 24/10 mới đây, ViêtNamNet có bài viết "Hoa mắt vì lợi trước mắt, bóp chết sản xuất trong nước".
Đọc mà bỗng thấy ...hoa cà hoa cải, vì cái cách tư duy lợi ích nhóm, nó ranh ma luồn lách. Đến hạt muối bé xíu cũng không thoát!
Theo đó, Tổng cục Hải quan vừa kết thúc chuyên án điều tra về nhập khẩu muối tại ba DN đã lộ ra không ít gian lận.
Đó là chuyện Công ty TNHH một thành viên Hóa chất cơ bản miền Nam, được Bộ Công thương cấp tới bẩy giấy phép nhập khẩu muối công nghiệp với số lượng lên tới 221.740 tấn để sử dụng vào sản xuất công nghiệp. Do đó, được hưởng thuế suất ưu đãi 15% (so với mức 50% thông thường).
Tuy nhiên, DN này chỉ bán một phần cho các đối tác phục vụ mục đích công nghiệp, còn lại để sản xuất muối ăn bán ra thị trường nội địa.
Đến lượt đối tác cũng không bỏ lỡ cơ hội. Ngưu theo ngưu, mã lại theo mã!
Muối mua về cho sản xuất công nghiệp, họ cũng bán một phần ra thị trường dưới dạng muối ăn để kiếm lời. Việc làm này kéo dài trong 5 năm liền. Khiến từ lâu, xã hội đặt câu hỏi, nước ta bờ biến hàng nghìn km, không thiếu muối. Vậy mà sao muối ăn thiếu đến nỗi phải nhập? Và cơ quan chức năng bắt đầu nghi ngờ.
Có biết đâu, muối trong nước mắt diêm dân thì thừa thãi?
Thế nhưng, khi mở rộng điều tra, cơ quan chức năng còn phát hiện, chả phải bé xíu như hạt muối mới dễ lọt. Ngay cả những lĩnh vực to và khó nhá như ngành cơ khí, cũng không thoát.
Dù có nhiều chính sách ưu đãi phát triển cơ khí trong nước, nhưng các DN trong nước vẫn bỏ qua những công trình, phần việc DN có thể làm được để thuê nhà thầu nước ngoài...
Hậu quả là ngành cơ khí trong nước lãnh đủ- ngày càng èo uột. Trong khi, "cơ khí chế tạo luôn là nòng cốt của công nghiệp sản xuất nội địa".
Lớn nhất, và mênh mông nhất là thị trường địa ốc vốn rất nhiều lợi nhuận. Nhiều DN hoa mắt và tưởng bở trước những nhà đầu tư ngoại đề ra những dự án tỷ đô. Nhưng vốn huy động nhiều nhất cuối cùng vẫn là từ trong nước.
Cái "ngu phí' thời kinh tế thị trường nó thiên biến vạn hóa, dù các DN, anh nào cũng cứ ngỡ mình "khôn"... nhất làng!
Quá hí hửng hướng ngoại, có những dự án, đất bị chiếm rồi bỏ không, thành dự án treo làm khổ người dân địa phương, làm mất cơ hội việc làm của biết bao người lao động trong nước.
Có biết đâu, muối trong nước mắt diêm dân thì thừa thãi? Ảnh minh họa |
Cứ là nhập khẩu tuốt.
Trong khi kinh tế nội địa, sản phẩm hoa quả, thực phẩm sống... trong nước không tiêu thụ nổi, và cũng chết nghẹt vì sự chèn ép của hàng nhập khẩu.
Một câu hỏi đặt ra, cơ quan quản lý Nhà nước nào đồng tình cấp phép cho các DN, để bóp chết sản xuất trong nước như vậy, với lý do dễ lọt tai là phục vụ sản xuất vì chất lượng các mặt hàng nội địa không đạt yêu cầu?
Phục vụ sản xuất hay phục vụ cái ví tiền của quản lý Nhà nước lẫn DN, bỏ mặc người lao động kiểu "sống chết mặc bay, tiền chúng ông bỏ túi"?
Cái chủ nghĩa mackeno, vì sao lại nảy nở, bắt rễ sâu trong trí não và tâm hồn những DN và quản lý Nhà nước đó đến vậy?
Thực chất nó là gì? Diện mạo nó ra sao? Hãy nghe ông Vũ Tiến Chiến (nguyên Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng TƯ) phát biểu tại ĐH Đảng lần thứ XI: "Đã xuất hiện dấu hiệu liên kết, móc nối giữa chủ doanh nghiệp với một số người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Đảng và Nhà nước để tiêu cực, tham nhũng"
Đến hạt muối bé xíu còn không thoát khỏi thân phận nữa là...Thanks
Hạt muối nhỏ, các DN và quản lý Nhà nước biết "nhìn ra", lợi ích to phết!
Hạt muối mặn, chỉ mặn chát với diêm dân, với lợi ích cộng đồng và quốc gia. Chưa nói đến những lĩnh vực to tát, như đất đai nhá.....
Không biết các cơ quan chức năng, pháp luật của Việt Nam rồi đây sẽ xử lý, ngăn chặn và đẩy lùi hiểm họa Tham nhũng, Lợi ích nhóm đến đâu? Chỉ biết với đà này, anh em nhà tham nhũng và lợi ích nhóm có cơ đẩy lùi..."vận nước".
Chuyện nhãn tiền!
Đề nghị Thủ tướng chịu trách nhiệm trực tiếp về giáo dục
Tất nhiên Thủ tướng hết sức bận rộn, nhưng nếu người đứng đầu Nhà nước trực tiếp lo về giáo dục sẽ giúp giáo dục nhiều cơ hội để thực sự trở thành quốc sách - Giáo sư Hồ Tú Bảo giải thích.LTS: Làm thế nào để thúc đẩy cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục lâu nay luôn là một chủ đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Đây cũng là một trong những nội dung then chốt được nhiều nhân sĩ, trí thức thời gian qua sôi nổi bàn thảo, góp ý với Đảng và Nhà nước. Để có thêm góc nhìn, Tuần Việt Nam trò chuyện với Giáo sư Hồ Tú Bảo, đồng tác giả Bản ý kiến của nhóm trí thức ở nước ngoài về việc đẩy mạnh cải cách để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Giáo dục chậm tiến do đâu?
Thưa giáo sư Hồ Tú Bảo, vì sao trong Bản Ý kiến gần đây các giáo sư người Việt sống ở nước ngoài lại một lần nữa nhấn mạnh vào vai trò của giáo dục?
Giáo sư Hồ Tú Bảo Bản Ý kiến "Cải cách toàn diện để phát triển đất nước" trình bày suy nghĩ của chúng tôi về nội lực Việt Nam và cải cách các lĩnh vực thiết yếu của đất nước: kinh tế, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, giáo dục, và đối ngoại.
Nói một cách đại thể thì các lĩnh vực kinh tế, y tế, khoa học và công nghệ chủ yếu liên quan đến phần vật chất của một xã hội, văn hóa chủ yếu liên quan đến phần tinh thần, còn giáo dục là nền tảng của những lĩnh vực kể trên. Giáo dục nhằm đem tri thức đến cho các công dân, và do vậy chất lượng các lĩnh vực kể trên phụ thuộc vào chất lượng của giáo dục. Trong thời buổi kinh tế tri thức và khi khoa học và công nghệ đang thay đổi rất nhanh, một nền giáo dục chất lượng cao là mục tiêu tối thượng của nhiều quốc gia.
Theo tôi có hai điều cần nhấn mạnh. Một là chất lượng giáo dục của chúng ta còn thấp, chưa đáp ứng được vai trò nền tảng cho sự phát triển. Hai là giáo dục chưa được quan tâm và quyết tâm thay đổi và thực hiện, từ cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước, như nó cần phải có. Điều này có lẽ do ảnh hưởng của giáo dục không dễ thấy và tác động của giáo dục không cấp bách như kinh tế chẳng hạn.
Làm công việc giảng dạy và nghiên cứu ở những nơi giáo dục đã thực sự là nền tảng của sự phát triển và luôn gắn bó với giáo dục Việt Nam, chúng tôi muốn một lần nữa nhấn mạnh ý kiến của mình về vai trò của giáo dục trong sự phát triển của đất nước.
Giáo dục đã được các nhà hoạch định chính sách quan tâm nâng lên thành "quốc sách hàng đầu" cách nay gần 20 năm. Nhìn lại quãng thời gian từ bấy đến nay, giáo sư có những nhận xét như thế nào về chất lượng giáo dục, đào tạo của ta?
Tôi xin trích những nhận xét về tình hình giáo dục tại Việt Nam do cả nhóm nhận xét và phân tích trong Bản Ý kiến:
"Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm nhất từ nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc sách hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút, nhất là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt Nam trong những năm qua như sau.
Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến đại học và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam chưa đào tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn ở khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.
Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện tượng làm bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người, sức của; dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa luôn thay đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích và các tệ nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.
Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn thấp, gần đây lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận lại được cấp phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình trạng nói trên dẫn đến hiện tượng "tị nạn giáo dục", khi những người giàu có ở Việt Nam, kể cả các quan chức, đều tìm cách cho con em ra nước ngoài học, thậm chí từ cấp phổ thông.
Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả xã hội, và các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, ... không hề được bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về việc dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ nhiệm chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án, v.v. đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của giáo dục đã được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây là chính yếu.
Giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu một tầm nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo dục xác định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt động giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục nặng nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu những người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả. Những cố gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính vụn vặt, chắp vá, nhiều khi do một vài quyết định vội vã và càng làm tình hình thêm rối.
Và, lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô tư toàn tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã hội cha mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy sinh, ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết cho thành bại của giáo dục".
Đề nghị Thủ tướng chịu trách nhiệm trực tiếp về giáo dục
Phát biểu của các nhà lãnh đạo đều quả quyết: "nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người", nhưng thực tế cho thấy nguồn lực này đã không bắt kịp ánh sáng từ cuộc đối mới do đảng khởi xướng. Vậy, theo giáo sư, cần phải làm những gì để nguồn lực con người Việt Nam đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của đất nước?
Đây thật sự là một câu hỏi lớn mà để trả lời cần nhiều nghiên cứu thấu đáo. Giáo dục là chuyện của mọi nhà và được bàn luận hằng ngày trên các phương tiện truyền thông, nên hầu như mọi chuyện đều là "biết rồi, nói mãi". Trong một khuôn khổ hạn chế, chúng tôi chỉ nêu ra vài ý kiến như sau.
Về tổng thể, do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục, "chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn." Tất nhiên Thủ tướng hết sức bận rộn, nhưng nếu người đứng đầu Nhà nước trực tiếp lo về giáo dục sẽ giúp giáo dục nhiều cơ hội để thực sự trở thành quốc sách.
Về cải tổ giáo dục, "một trong những nội dung cải cách cấp bách phải là nâng cao vị thế của người thầy, bắt đầu từ đồng lương đủ sống và nuôi gia đình. Từ đó tiến đến việc thiết lập lại sự trung thực trong học tập và thi cử, trả lại tính trong sáng của tuổi trẻ cho học trò, tạo điều kiện cho những tài năng nảy nở. Một nội dung nữa là tôn trọng quyền tự do học thuật và tư tưởng ở đại học cũng như trong các hoạt động trí thức, văn hoá nghệ thuật, tạo ra sức thu hút đối với tuổi trẻ và qua đó giúp thế hệ trẻ có động lực phấn đấu mạnh mẽ, có ý thức công dân cao và hoài bão phát triển đất nước".
Về một số biện pháp cần làm ngay để giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, chúng tôi cho rằng cần "triệt để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm nhất là đến năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai đại học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và trình độ giáo sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại học tiên tiến ở châu Á. Về các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn chỉnh giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để ngăn ngừa hiện tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban hành các sắc thuế khuyến khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực hiện cụ thể trước năm 2015.
Cần tăng cường mở rộng và xây dựng thêm các trường, các khoa liên quan khoa học tự nhiên và công nghệ, xây dựng nhiều trường cao đẳng công nghệ để cung cấp đủ lao động cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới. Hiện nay, một mặt, trong nhiều ngành, sinh viên tốt nghiệp ra truờng không có việc làm, trong khi một số ngành về công nghệ tin học, điện tử, hoá học, kế toán, nông cơ, v.v. thì nguồn cung cấp thiếu hoặc không đủ chất lượng. Chính sách sắp tới cần chú trọng đầu tư xây dựng thêm các ngành ở các lĩnh vực này và cải thiện chương trình, nội dung giảng dạy để nâng cao chất lượng.
Mặt khác, nhu cầu về lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, cao đẳng kế toán,... đang và sẽ tăng nhanh nhưng khả năng cung cấp còn rất hạn chế. Tâm lý coi thường bậc trung cấp và cao đẳng trong xã hội Việt Nam rất lớn. Cần có chính sách khuyến khích học tập trong các bậc học này, chẳng hạn tăng cường chế độ cấp học bổng và quan tâm giới thiệu việc làm cho học viên sau khi ra trường. Tóm lại, cần đổi mới thể chế giáo dục và đào tạo hiện nay mới có thể thực hiện toàn dụng lao động và đẩy mạnh công nghiệp hoá trong thập niên 2010".
Nếu nói thêm một ý kiến riêng, thì tôi cho là cần nhìn cải cách giáo dục theo quan điểm hệ thống, tức giáo dục chỉ có thể cải cách khi đồng thời cải cách những lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, giao thông vận tải, ... Đây cũng chính là ý tưởng xuyên suốt của "Cải cách toàn diện để phát triển đất nước". Chẳng hạn chúng ta không thể giáo dục trẻ em sống tốt đẹp, có văn hóa nếu xung quanh cha mẹ chúng và rất nhiều người lớn làm những điều sai trái. Rồi cũng theo quan điểm hệ thống, cần xem xét để thiết kế lại tổng thể nội dung giáo dục, xuyên suốt các cấp học, điều hòa tất cả các môn học để đào tạo một cách thích hợp nhất các công dân tương lai.
Chỉ dựa vào "trồng cây gì, nuôi con gì" thì không tiến nhanh được
Đẳng cấp của một quốc gia mạnh, ngoài nguồn lực con người đã được đào tạo chất lượng cao còn bao gồm cả việc sở hữu khoa học và công nghệ tiên tiến. Giáo sư có nhận xét như thế nào về tình hình khoa học và công nghệ ở Việt Nam?
Bản Ý kiến đã thảo luận và nêu một số nhận xét về tình hình khoa học và công nghệ (KH&CN) ở Việt Nam. Ở đây tôi nêu thêm một số ý kiến nữa, giới hạn trong nghiên cứu KH&CN.
- Về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của đất nước. Từ hàng chục năm nay chúng ta đã luôn nói về vai trò then chốt của KH&CN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng theo tôi KH&CN chưa thật sự đóng được vai trò đó. Tức trong những gì ta đã làm được đến nay, phần đóng góp của KH&CN còn hết sức khiêm tốn (không kể đến việc dùng các sản phẩm KH&CN nhập khẩu).
Năm 2008, lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Đây là kết quả của thời đổi mới và dựa nhiều vào việc xuất khẩu tài nguyên khoáng sản. Nhưng đổi mới chủ yếu do chúng ta tháo cởi được những ràng buộc vô lý đã có lúc tự buộc vào mình, còn tài nguyên khoáng sản thì đào mãi sẽ đến lúc hết. Chúng ta chủ yếu vẫn sản xuất hàng công nghiệp gia công, nuôi trồng thủy sản, dùng nhiều lao động giản đơn và phụ thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu.
Yếu tố nào giúp ta có thể thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình là câu hỏi khó nhưng ta phải trả lời. Rõ ràng nếu chỉ dựa vào "trồng cây gì, nuôi con gì" thì cả nước không bao giờ tiến nhanh được. Nhìn vào những nước đã vượt lên được như Hàn Quốc hay Singapore, có thể thấy rõ họ đã làm được vậy do nhờ phần lớn vào phát triển khoa học và công nghệ. Ta chắc chắn cũng không có cách khác, vấn đề là làm sao để KH&CN thật sự là yếu tố then chốt đưa đất nước vượt lên.
- Cần thấy "cơ cấu" KH&CN của ta đang khác nhiều so với các nước phát triển, tức ở họ lực lượng nghiên cứu và nội dung KH&CN vừa có trong giới hàn lâm (đại học và các viện nghiên cứu công) vừa có trong giới sản xuất (như viện nghiên cứu của các tập đoàn công nghiệp lớn), thì ở ta KH&CN chủ yếu mới chỉ có trong giới hàn lâm. Muốn KH&CN góp phần vào phát triển đất nước, gây dựng lực lượng và đưa nghiên cứu KH&CN vào các lĩnh vực của sản xuất là một nhiệm vụ cốt yếu.
- Lực lượng và thành quả KH&CN của ta còn rất hạn chế và khoảng cách so với KH&CN tiên tiến trên thế giới còn rất lớn. Một hiện tượng rất đáng suy nghĩ là trong hàng chục năm qua nhà nước đã đào tạo rất nhiều cán bộ KH&CN, nhưng rất ít trong số này hoạt động khoa học được thật sự, còn số đông có "cuộc đời khoa học" không mấy kết quả. Sở dĩ vậy chủ yếu vì các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi trường KH&CN thích hợp để làm việc và sáng tạo.
Mới đây tôi nghe một giáo sư vật lý đầu ngành (đã về hưu) kể rằng nhiều bạn bè cùng thế hệ ông khi về già cảm luôn thấy tiếc và ngậm ngùi vì đã cống hiến cả đời cho khoa học, nhưng suốt mấy chục năm không làm được gì đáng kể do không có môi trường khoa học. Môi trường này gồm ba yếu tố cơ bản: trang thiết bị làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công việc, các chính sách hợp lý kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân vì khoa học.
Chuyện có lương đủ sống và điều kiện làm việc đã được đề cập trong Bản Ý kiến. Đáng nói là nhiều chính sách và cách quản lý KH&CN chưa hợp lý đã làm ảnh hưởng nhiều phát triển của KH&CN. Đơn cử những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư, phó giáo sư của ta không đề cao nghiên cứu chất lượng cao, do vậy đã không khuyến khích nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ hướng con người đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ "điểm" thỏa mãn các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây thật sự là những điều rất bất hợp lý đã được nhiều học giả góp ý hơn hai chục năm, nhưng không được thay đổi. Và không là chuyện nhỏ vì nếu không thay đổi, nó có thể làm chúng ta không bao giờ xây dựng được một nền khoa học đích thực cần cho đất nước.
Vậy theo giáo sư, chúng ta nên ứng xử với khoa học và công nghệ thế nào để nguồn lực này góp phần đưa Việt Nam sớm trở thành quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa?
Thật khó nói cái chuyện lớn này trong ít dòng, tôi chỉ nêu lên hai trong số nhiều điều cốt yếu.
Thứ nhất, kinh phí cho KH&CN phải được tăng lên một cách đáng kể. Tôi nhớ trong một phỏng vấn cách đây mấy tháng Bộ trưởng KH&CN nói đại ý cần đầu tư nhiều gấp 4-5 lần so với hiện nay thì mới kỳ vọng có được các sản phẩm khoa học xứng với mong mỏi của xã hội. Trong Bản Ý kiến chúng tôi cũng chỉ rõ điều này: "Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ năm 2006 chẳng hạn chỉ có 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP. Trong cùng năm, Thái Lan đầu tư 1,79 tỉ USD (0,3% GDP) và Malaysia 1,54 tỉ (0,5% GDP). Đáng chú ý là Trung Quốc đầu tư 1,4% GDP cho khoa học và công nghệ trong năm 2010 và đặt mục tiêu đầu tư 4% GDP vào năm 2015".
Thứ hai, cùng với tăng kinh phí đầu tư, cần thay đổi cách quản lý kinh phí và đề tài KH&CN. Nói ngắn gọn, chỉ cấp kinh phí cho những tập thể có khả năng làm nghiên cứu và ứng dụng KH&CN, và yêu cầu họ làm ra sản phẩm xứng với "đồng tiền bát gạo". Chúng tôi cho rằng: "Hiện nay, các đề tài nghiên cứu cơ bản ở cấp nhà nước do các nhà khoa học xây dựng đã được quản lý khá tốt bởi Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted). Nhưng với các loại đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển sản xuất ở các cấp - do cơ quan chủ quản ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu nộp đơn xin và các cơ quan chủ quản xét duyệt và thẩm định - lại chưa có sự tham gia đúng mức của các nhà chuyên môn. Vì lý do này nhiều đề tài nghiên cứu của các bộ ngành, địa phương đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa học quốc tế và nhu cầu thực tế."
Vài lời ngắn gọn và hy vọng khi có dịp sẽ thảo luận kỹ hơn.
"Nhà nước mạnh khi biết cư xử với xã hội như người lớn"
"Một nhà nước mạnh không phải là một nhà nước làm tất cả mọi việc; đó là một nhà nước biết tin, biết chia việc cho xã hội, biết cư xử với xã hội như với một người lớn." - GS Cao Huy Thuần chia sẻ suy ngẫm sâu sắc về các giải pháp vực dậy văn hóa xã hội.LTS: Sự xuống cấp về văn hóa xã hội hiện đang là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Các văn kiện quan trọng của Đảng đã chỉ rõ thực trạng này. Các nhân sĩ, trí thức và đông đảo người dân cũng đã lên tiếng không ít lần chia sẻ những suy nghĩ, giải pháp để vực dậy vốn văn hóa - xã hội.
Để góp thêm một góc nhìn, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện với Giáo sư Cao Huy Thuần.
"Mất văn hóa, dân tộc sẽ chỉ là những đứa con rơi"
- Được biết, trong Bản Ý kiến của một số học giả Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài gửi cho các vị lãnh đạo mới đây có góp bàn về việc ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa xã hội. Là một trong những người tham gia góp ý kiến, hẳn giáo sư có nhiều suy nghĩ về vốn văn hóa xã hội, về cái xấu cái tốt trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam?
GS Cao Huy Thuần: Trong Bản Ý kiến gồm 40 trang, bàn về nhiều lĩnh vực, văn hóa chỉ chiếm hơn nửa trang. Đâu phải tình cờ! Ít nhất vì hai lý do. Một là vì nghẹn ngào. Chung quanh chúng ta, từ gia đình, trường học, xí nghiệp, công sở, đường sá, tôn miếu, đền đài, danh lam, thắng cảnh, sông, núi... đâu đâu cũng rơi lệ trước tình trạng mà dư luận gọi chung là "xuống cấp trầm trọng". Xã hội và báo chí đã nói quá nhiều. Chúng tôi tóm gọn nửa trang là nghẹn lời. Nửa trang đó là một tiếng nấc.
Lý do thứ hai là tính bao quát của văn hóa. Văn hóa bao trùm khắp mọi lĩnh vực, ở đâu cũng có, từ khoa học, kỹ thuật cho đến nghệ thuật, văn chương, từ tinh thần cho đến vật chất, từ kinh tế cho đến chót vót chính trị trên cao. Cô không thể khoanh tròn một vùng nhất định, gọi đây là văn hóa, rồi tưởng tượng ra những biện pháp ngăn chận xuống cấp. Mọi mặt đều là văn hóa cả, cho nên biện pháp đề ra phải bao quát cả mọi mặt. Tôi xin nhắc lại sơ lược định nghĩa văn hóa của Unesco: "Văn hóa là toàn thể những nét riêng biệt, về tâm linh cũng như về vật chất, trí thức cũng như tình cảm, tạo thành đặc tính của một xã hội, bao gồm không những nghệ thuật và văn chương mà còn cả cách sống, những quyền căn bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập quán và tín ngưỡng".
Ấy là tôi chưa nói đến lĩnh vực thiết thân nhất của mọi nguời dân hiện nay ở Việt nam, chị em ruột với văn hóa, cũng đang bị "xuống cấp trầm trọng", cũng đang mang tai biến tật nguyền, cũng đang chờ thuốc thần của Hải Thượng Lãn Ông: giáo dục. Giáo dục của chúng ta đang rơi xuống vực thẳm, kéo văn hóa rơi theo. Không vớt được giáo dục, đừng hòng cứu nổi văn hóa. Do đó, bản ý kiến gộp chung văn hóa và giáo dục làm một, thử bốc vài thang thuốc Nam xem sinh khí có hồi phục được chút nào chăng.
- "Xuống cấp" có nghĩa là "mất vốn"? Mất vốn dần dần? Mất dần dần cái tốt? Nhiễm dần dần cái xấu? Do đâu mà cái xấu chiếm dần cái tốt?
Cô dùng chữ "vốn". Tôi e rằng phải dùng chữ "gia tài". Văn hóa là kết quả của hàng ngàn năm lịch sử, là gia tài sống của cả dân tộc. Mất gia tài đó thì dân tộc chỉ còn là lũ con rơi vô thừa nhận. Nhưng tôi buồn mà không bi quan. Tôi không nghĩ chúng ta mất vốn. Để tránh đi vào lý thuyết khô khan, tôi xin nhắc lại một ví dụ cụ thể, một chi tiết nhỏ nhặt mà Tuần Việt Nam đã cùng chứng kiến với chúng tôi.
Hồi tháng 5 năm ngoái, Tuần Việt Nam hợp tác với trung tâm Liễu Quán để tổ chức một Tuần lễ văn hóa ở Huế, kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Con đường ven theo bờ sông Hương, chạy dài trước trung tâm Liễu Quán được trang trí bằng một vườn cảnh thôn quê, với rau xanh, quả ngọt, ớt, chanh, cây chuối, cây đu đủ, bẹ cải, bắp su, hoa lá đủ màu, rực rỡ. Suốt cả một tuần, khách viếng cảnh chen vai thích cánh trên đường hoa cả chục ngàn người, ban ngày cũng như ban đêm, không một cọng hoa bị ngắt, không một trái ớt bị mất. Tại sao vậy? Tại sao hoa đào mang về từ Nhật đã bị trộm cướp dẫm nát ở chỗ khác, mà ở chỗ này trái đu đủ vẫn ung dung nặng tình với gió sông Hương? Bài học không phải là chỗ này mất vốn, chỗ kia còn vốn.
Tôi nghĩ khác và đã nói với Tuần Việt Nam: ở đâu có tính tự giác thì ở đấy có văn hóa. Mà tính tự giác thì không phải do bản năng sợ mà có. Con đường hoa ấy có ai canh gác đâu? Tính tự giác là do nếp nhà, mà nếp nhà là kết quả từ ngàn năm giáo dục, giáo dục trong gia đình, giáo dục trong trường học, giáo dục trong sách giáo khoa vỡ lòng. Ngày nay, giáo dục ấy vắng bóng trong lĩnh vực công, nhưng xã hội còn giữ. Vậy thì hãy tin ở xã hội mà nhờ. Khi nhà nước biết xã hội tự quản được và tự quản tốt, hãy giao cho xã hội tự quản. Một nhà nước mạnh không phải là một nhà nước làm tất cả mọi việc; đó là một nhà nước biết tin, biết chia việc cho xã hội, biết cư xử với xã hội như với một người lớn, không phải như với một vị thành niên.
Ấy là chuyện nhỏ về một con đường thôi, nhưng đó là văn hóa, đó là chính sách văn hóa. Văn hóa là tương quan: tương quan giữa con người với chính mình, tương quan giữa con người với người khác, tương quan giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, với môi trường sống, với đất nước, tổ quốc. Văn hóa là một tổng thể những tương quan, như mọi sông, mọi suối, mọi rạch, mọi khe đều chảy vào biển. Nhà nước không thể thống lĩnh tất cả mọi tương quan, lại càng không thể thống lĩnh mọi tương quan với còi và dùi cui.
Hãy tạo điều kiện để trả luân lý về lại cho gia đình, đạo đức về lại cho trường học, truyền thống về lại cho tổ tiên, tự giác về lại cho xã hội, như thành phố Huế đã biết trả lại con đường hoa cho Liễu Quán, cho khách nhàn du. Xã hội thừa sức làm mọi chuyện chân thiện mỹ. Chỉ cần nhà nước sáng suốt và biết khiêm tốn đóng vai hỗ trợ khi cần thiết.
Giáo sư Cao Huy Thuần. Ảnh Khánh Linh |
Đúng quá! Không có cảnh sát thì ngay xã hội cũng không còn, nói gì tự quản. Trên kia, tôi đã kể nhiều lĩnh vực thiết thân với văn hóa. Bây giờ tôi phải nhấn mạnh một lĩnh vực nữa, cũng máu mũ ruột thịt: luật pháp. Luật pháp là cây dùi cui có văn hóa. Nó gõ vào đầu cái xấu, cái ác, cái bất công, cái phi pháp, cái đáng trừng trị. Bản Ý kiến nói rõ: nó là tối thượng. Câu châm ngôn của nó là: "Cái gì mà luật không cấm thì làm được". Điều đó cũng có nghĩa là: cái gì mà luật cấm thì đừng có làm, làm thì đi nhà mát. Một nước văn minh là một nước từ trên xuống dưới gối đầu trên châm ngôn ấy mà ngủ ngon. Còn nếu châm ngôn ấy không có thì người ngủ ngon trên gối là ông ba kẹ tham nhũng.
Nói lông bông như vậy để trả lời về "cái tốt" "cái xấu" của cô. Cái xấu thì luật pháp phải trừng trị. Cái tốt thì giáo dục phải vun trồng. Bắt đầu như vậy là bước đầu trả lại nhan sắc cho bộ mặt văn hóa Việt Nam. Luật pháp nghiêm minh, giáo dục chân chính: đó là điều kiện tất yếu tối thiểu.
- Như vậy, luật pháp là phần việc của nhà nước, giáo dục là phần việc của xã hội?
Không hẳn! Không bao giờ hai xã hội ấy - xã hội chính trị và xã hội dân sự - đứng tách bạch ra hai bên, với biên giới rạch ròi ở giữa. Hai bên thông thương và hỗ trợ cho nhau. Cũng để tránh lý thuyết khô khan, tôi xin kể một điều tra khoa học được nói đến trong các sách về xã hội học cách đây khá lâu. Điều tra được tổ chức trên hai nhóm trẻ em cùng tuổi, một ở Pháp và một ở Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là: "Nếu có một bọn côn đồ dọa đến đưổi các em, không cho đến chơi trong công viên của các em nữa, các em sẽ làm gì?" Nhóm trẻ em ở Pháp trả lời: đến tố cáo với cảnh sát và yêu cầu can thiệp. Nhóm trẻ em ở Mỹ trả lời: tự tổ chức canh gác để không cho bọn côn đồ đến chiếm. Điều tra đó được làm để xác nhận sự khác biệt giữa hai thái độ văn hóa, do lịch sử hai dân tộc tạo nên: một bên là văn hóa tập quyền, một bên là văn hóa dân chủ. Dù xã hội công dân ở Mỹ phát triển đến đâu đi nữa, trẻ em ở Mỹ cũng biết rằng nếu các em canh gác mà bọn côn đồ cứ đến chiếm như thường thì cảnh sát vẫn có đấy thôi. Nhà nước đâu có đứng khoanh tay làm ngơ!
Đồng tiền cũng biết tu chứ!
- Thưa giáo sư, sau 25 năm đổi mới và mở cửa hội nhập với thế giới, kinh tế khởi sắc hơn, sự tiếp cận của người dân đối với những cái mới cũng trở nên cởi mở hơn nhiều so với trước kia, thế mà văn hóa lại xuống cấp. Ông lý giải ra sao cho nghịch lý này?
Nếu kinh tế lên, mà tất cả cái khác đều xuống cấp, văn hóa lên cấp sao được? Nhưng để khỏi phải nói lại những điều tôi vừa nói, tôi nêu thêm ở đây một cách giải thích nữa, tất nhiên không phải là câu trả lời duy nhất. Tôi thường đọc sách Phật, thấy nói như thế này: người giàu sang quá thì khó tu, mà người nghèo khổ quá cũng vậy. Người nghèo khổ quá thì đêm ngày lo miếng cơm manh áo chưa xong, thì giờ tâm trí đâu nữa mà tu? Còn người giàu sang quá thì ham hưởng thụ, có tiền mua tiên (nữ) cũng được. Đức Phật nói thế là cốt khuyến khích nhà cầm quyền làm thế nào để nâng cao mực sống của người nghèo lên, giống như dân gian ta nói "có thực mới vực được đạo". Ngài nói thế cũng cốt khuyên nhủ người giàu đừng tham vinh hoa phú quý.
Nhưng, từ nhận xét thông thường đó, ta thấy gì trong hiện trạng Việt Nam? Kinh tế có lên, mực sống có lên, đúng thế, nhưng công bằng xã hội quá chênh lệch. Người nghèo vẫn nghèo, càng nghèo, so với người giàu càng giàu, càng giàu sụ, giàu một cách không ai hiểu nỗi. Cách làm tiền và tiêu tiền của họ phung phí, vung vãi, tựa như tiền là giấy lộn, cũng không ai hiểu nỗi. Tiền ở đâu ra, chỉ mỗi câu hỏi ấy đủ rưới ảnh hưỏng xấu tràn lan trên xã hội, bởi vì tiền kiếm được bằng mồ hôi nước mắt, bằng giá trị lao động, chẳng thấm vào đâu so với tiền bất chính. Tiền này đi đến đâu, đạo đức suy đồi đến đó, giá trị nào cũng có thể đem ra mua bán.
Chắc cô sẽ hỏi: vậy giới trung lưu, tầng lớp xã hội "dễ tu" nhất ở giữa, thì sao? Có phải tất cả giá trị văn hóa nằm ở đấy không? Thì cô thấy đó, họ chạy theo đồng lương hụt hơi, làm chơi ăn thiệt, ăn lương có khác gì ăn ảo tưởng đâu. Vậy thì thượng, hạ, trung, ba giới đều chạy theo tiền, tiền là ma lực hút hết máu mủ sinh khí của mọi giới trong xã hội, là giá trị duy nhất đặt trên đầu. Văn hóa còn là cái gì? Bởi vậy, trong bản ý kiến, đồng lương là một vấn đề hàng đầu phải giải quyết, nếu không, đừng hòng cải cách đại học, trung học, tiểu học, mẫu giáo, giáo dục, đạo đức, và tất nhiên tham nhũng.
- Đồng tiền có biết tu không?
Biết! Mà tu rất giỏi! Đắc đạo như chơi! Ở nước Mỹ, bao nhiêu nhà giàu trọng truyền thống tặng tiền cho các trường đại học để đại học Mỹ vẫn dẫn đầu văn hóa đại học trên thế giới. Gần đây, ai cũng biết, ông Bill Gates đem một phần tài sản để làm từ thiện. Nhiều người bắt chước ông. Ở Việt Nam, tôi bắt đầu có cảm tưởng các đại gia cũng muốn cho đồng tiền đi tu và tôi tán dương khuynh hướng này. Trung tâm văn hóa Liễu Quán được tái thiết là nhờ tiền hiến cúng âm thầm của một đại gia ẩn danh. Văn hóa bố thí của Phật giáo là con đường tu của đồng tiền biết sám hối. Chỉ tiếc một điều là ý nghĩa của bố thí chưa được hiểu rõ, cần phải biết rằng bố thí cho những công trình từ thiện, văn hóa, cũng phước đức như hiến tặng chùa chiền.
Tôi chưa trả lời hết câu hỏi trên về sự cởi mở để tiếp thu cái mới. Bây giờ xin gộp với câu hỏi này thành một vấn đề chung. Với làn sóng toàn cầu hóa, không nền văn hóa nào có thể đóng được, kể cả Myanmar trước đây. Dù muốn dù không, ai cũng phải mở. Vậy, ta tiếp thu cái mới gì khi mở? Cần phải phân biệt kỹ thuật với các yếu tố văn hóa khác. Kỹ thuật làm đồng bộ thế giới. Thang máy hiệu ấy ở Hà Nội cũng là thang máy ta đã bước vào ở Thái Lan, ở Phi, ở Singapore, ở Pháp. Cái máy tính tôi đang làm việc đây y chang máy của đồng nghiệp của tôi ở Mỹ. Cô nhân viên tính tiền ở các siêu thị cũng quẹt một cái trên mã vạch giống như các đồng nghiệp của cô bên Angola. Kỹ thuật là một hình thái của văn hóa, nhưng có đời sống ngắn. Có súng rồi thì chẳng ai dùng cung tên. Lái ô tô rồi thì chẳng ai du lịch bằng xe tứ mã.
Văn hóa thì ngược lại, dài dằng dặc hàng mấy nghìn năm. Kỹ thuật không cần biết phân chia đất đai, lãnh thổ, biên giới: nó nối kết nhân loại làm một. Tôi ở Pháp nấu cơm bằng nồi điện giống như gia đình tôi ở Việt Nam. Ngược lại, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thuyết... thì có đất đai, lãnh thổ rành rọt. Ngày rằm, mồng một, sáng sớm trên các đường lộ Sài Gòn, xe thổ mộ chở đầy hoa; đố ai tìm ra được quang cảnh đó ở Nga, ở Ý.
Nhập cái mới về kỹ thuật tuy cũng thay đổi lối sống, nhưng ta không sống với kỹ thuật. Giữa tôi và cái máy tính trước mặt, có ai gần gũi hơn, có ai gần gũi hàng ngày như vậy? Nhưng nó với tôi đâu có tình cảm gắn bó gì. Đường sắt, xa lộ nối kết các nước châu Âu giăng đầy như mạng nhện, nhưng mấy chục năm rồi, ý thức châu Âu đã có đâu? Ta không sống trong kỹ thuật. Ta sống trong ngôn ngữ. Ta sống trong văn hóa. Ta yêu tiếng "em" ngọt lịm trên môi.
Kết luận: kỹ thuật có thể kết hợp thế giới, nối vòng tay lớn với cả nhân loại, nhưng văn hóa là miếng đất tự nhiên trên đó không thể không có đối chọi. Văn hóa là đối chọi, vì đó là nơi un đúc ra bản sắc, và không thể có bản sắc nếu không có một va chạm tối thiểu với một văn hóa khác. Dù ai nói gì đi nữa, đã nói văn hóa thì bao giờ cũng có một chúng ta chống lại chúng nó, giống như thông thường người ta định nghĩa tôi bằng cách phân biệt với cái không phải là tôi.
- Ấy là chỉ mới nói đến kỹ thuật, chưa động đến những hình thức xâm nhập văn hóa mà ai cũng thấy trên màn hình, qua phim ảnh, y phục, thời trang, hoặc sách báo...
Mạnh như nước Pháp mà cũng phải nói rõ: sản phẩm văn hóa không thể được xem như các sản phẩm tiêu thụ khác, phải được bảo vệ, phải có quy chế riêng, trước sự tấn công của các văn hóa mạnh hơn. Nước nào cũng phải bảo vệ văn hóa của mình, nếu không thì truyền thống mất hết, tổ tiên chết lại lần thứ hai. Càng mở cửa càng phải biết mình là gì, mình là ai.
- Thế nhưng khi mở cửa mình cũng hấp thụ được cái tốt chứ?
Đâu có phải bây giờ ta mới mở cửa? Ngay từ khi độc lập, ta đã mở cửa rồi. Ta mở cửa từ 1945. Ta mở cửa với Tuyên ngôn Độc lập. Hoành tráng! Phải là một Hồ Chí Minh mới mở cửa xuất chúng như thế. Sang sảng, tiếng của Chủ tịch vang dội quãng trường Ba Đình : "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Ấy là tư tưởng của Jefferson, tư tưởng tiến bộ nhất của thế giới hồi đó.
Phải công bằng mà nói: ngày nay, ta cũng đã mở cửa đón hương thơm cỏ lạ của văn hóa thế giới tiến bộ đấy chứ. "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" chẳng phải toàn là những giá trị cao đẹp nhất của loài người đấy sao? Bản ý kiến tán dương tiêu chí đó, xác quyết: chừng ấy thôi mà thực hiện cho kỳ được, vậy là dân tộc ta có phước.
- Như vậy truyền thống không tương phản với hiện đại?
Hiện đại hóa truyền thống và truyền thống hóa hiện đại là thiên tài của Hồ Chí Minh. Nên học tập cái tài đó để đừng đánh mất truyền thống mà cũng đừng bảo thủ cái đáng vứt đi. Tôi trích thêm ở đây câu viết của một đại học giả Pháp, Lévi-Strauss, nhà nhân chủng học lừng danh thế giới, người cực lực bênh vực những nền văn minh mà ta gọi là sơ khai. "Văn minh bao hàm sự sống chung giữa các nền văn hóa phô bày ra với nhau đến mức tối đa những dị biệt của mình, và văn minh chính là sự sống chung ấy". Phải biết bảo vệ dị biệt - nghĩa là bản sắc - cho đến tối đa, nhưng phải biết sống chung. Như vậy thì mới không văn hóa nào đô hộ được mình.
Hãy là những Nguyễn Trãi trong văn hóa
- Nhiều người trẻ cho biết họ lúng túng khi đi tìm đức tin và lý tưởng cho mình. Giáo sư suy nghĩ thế nào về thực tế này?
Tôi mong giới trẻ hãy đọc lại Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Nguyễn Trải ở Côn Sơn. Con người đẹp lạ lùng. Người trí thức tinh hoa của lịch sử, của văn hóa Việt Nam. Giữa một xã hội mất đạo đức, một xã hội chỉ biết có tiền, một xã hội mà kiến thức không ra ngoài ba chữ GDP, giới trẻ hãy đọc mấy câu đầu của Bình Ngô Đại Cáo để suy ngẫm: "Nước ta là một nước văn hiến". Mới đại thắng xong, Nguyễn Trãi không mở đầu bằng phô trương sức mạnh quân sự mà bằng một định nghĩa không ngờ: đặt văn hóa lên giá trị thượng đỉnh. Nấc thang cao nhất để ta đứng trên đó mà cư xử ngang nhau với phương Bắc là nấc thang văn hóa. Cũng trên nấc thang đó, Nguyễn Trải khẳng định: văn hóa của ta khác văn hóa của ngươi. Cái rốn tư tưởng của ta nằm ở bên này bờ cõi của ta:
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Đó là tuyên ngôn độc lập văn hóa mà xin giới trẻ đừng quên. Bởi vì, chỉ mới mấy ngày nay thôi, ai đọc báo cũng biết thông tin đến từ Ủy ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ đã họp từ ngày 15 đến 18 tháng 10 và đã hạ quyết nghị biến Trung Quốc thành đại cường văn hóa. Họ nói: "Xí nghiệp kinh tế của ta đứng vào hàng 500 xí nghiệp đầu sổ của thế giới, nhưng ta không có một xí nghiệp văn hóa nào được thế giới biết đến. Người Mỹ chiếm thị trường của ta với những phim lấy hứng từ lịch sử Trung Quốc, nhưng Trung Quốc là đứng vào hàng số không về tính sáng tạo. Lợi tức của 500 xí nghiệp xuất bản Trung Quốc thấp hơn lợi tức của một nhà xuất bản Đức duy nhất".
Trung Quốc đã có Viện Khổng Tử ở khắp nơi. Họ vung tiền ra để đưa tin trên thế giới. Sản phẩm văn hóa của họ tràn ngập các nước chung quanh. Thế vẫn chưa đủ. Bởi vì họ biết: văn hóa là sức mạnh mềm vô cùng hữu hiệu.
Hãy là Nguyễn Trãi, các bạn trẻ của tôi!
Hướng nào cho tái cấu trúc?
Có một vấn đề rất quan trọng nhưng không giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan đến mọi mặt của xã hội. Đó là chúng ta cần một chính phủ mạnh và hiệu quả ở cả trung ương và địa phương. Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt lõi của nhiều vấn đề.Lời toà soạn: Thưa quí vị độc giả Tuần Việt Nam, dòng thời sự chủ lưu hiện nay đang tập trung vào câu chuyện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Thực tiễn phát triển đất nước hơn hai chục năm qua đã cho thấy, nếu đứng trước một bước ngoặt mới, nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới mạnh mẽ thì không thể đưa đất nước bật lên được.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ III vừa qua khẳng định: "Một nội dung mới rất quan trọng được hội nghị trung ương lần này xem xét và quyết định là phải tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng".
Giới nghiên cứu, các nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước cũng đã có những phân tích về vấn đề này. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam trò chuyện với GS. Trần Văn Thọ (Đại học Wesada, Nhật Bản), tác giả của nhiều bài nghiên cứu, phân tích chất lượng về kinh tế Việt Nam, và là đồng tác giả Bản ý kiến của nhóm trí thức ở nước ngoài về việc đẩy mạnh cải cách để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Tái cấu trúc theo hướng nào?
- Thưa giáo sư, các nhà quản lý và giới nghiên cứu trong nước gần đây bàn tán sôi nổi về vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Hội nghị Trung ương vừa qua nhấn mạnh nhiều lần điểm này. Xin hỏi nhận định của ông về cơ cấu kinh tế hiện nay?
GS Trần Văn Thọ: Còn quá sớm để nhận định nhưng chúng tôi cho rằng Hội nghị Trung ương vừa rồi đã phát đi một số tín hiệu tích cực, cho thấy bước đầu có nhận thức chung trong giới lãnh đạo về nhu cấu cấp thiết phải cải cách toàn diện để đất nước tiếp tục phát triển.
Đó cũng là nội dung của bản ý kiến mà một số anh em trí thức đang sống và làm việc ở nước ngoài, trong đó có tôi, mới đây đã gửi tới các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước và đã nhận được những phản hồi tích cực.
Một trong những điểm nổi bật nhất là trong khi kinh tế Việt Nam hội nhập rất sâu vào nền kinh tế thế giới, nhất là hội nhập mạnh vào khu vực Đông Á là nơi đang diễn ra cạnh tranh gay gắt, nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế rất yếu. Điều này phản ánh trong cơ cấu xuất nhập khẩu, trong cán cân ngoại thương ngày càng nhập siêu lớn.
Trong thời đại toàn cầu hóa và khu vực hóa, Việt Nam đã đi theo hướng hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường, và không khẩn trương phát triển sâu và rộng các ngành công nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.
Mặt khác, cơ chế và chính sách của Việt Nam cho đến nay đã gây nên những lãng phí về nguồn lực và làm nền kinh tế kém hiệu suất, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư công, trong việc ưu đãi các tập đoàn kinh tế trong khi các tập đoàn này hầu như không cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
Một hậu quả khác của chính sách và cơ chế hiện nay là các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn về huy động vốn, đời sống của người lao động cũng khó khăn, và xã hội không tạo đủ công ăn việc làm khiến nhiều người phải ra nước ngoài tìm việc một cách miễn cưỡng.
Giáo sư Trần Văn Thọ trong một cuộc trực tuyến với nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển trên VietNamNet |
Luật Đất đai coi đất đai là sở hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định. Đây chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát triển công nghiệp, sân golf, hay xây nhà kinh doanh mà hầu hết các lĩnh vực này đều không mang lại hiệu quả. Hạ tầng nông thôn và thị trường lao động chậm cải thiện cũng cản trở việc công nghiệp hóa nông thôn và dịch chuyển lao động sang các lĩnh vực phi nông nghiệp.
Vậy theo ông, đâu là phương hướng, chiến lược cần có? Chính sách tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng phải như thế nào?
Đây là vấn đề khá rộng và lớn, ở đây chỉ xin nói đến mấy điểm chúng tôi cho là quan trọng nhất.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Chiến lược phát triển phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng và chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày càng có kỹ năng cao qua giáo dục và đào tạo, qua khả năng làm chủ công nghệ.
Hiện nay xuất khẩu lao động và phụ nữ muốn ra nước ngoài lập gia đình vì lý do kinh tế đang là hiện tượng làm bức xúc người dân và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên thế giới. Chúng tôi đề nghị nhà nước đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phải thực hiện toàn dụng lao động, không còn ai phải miễn cưỡng ra nước ngoài chỉ vì sinh kế.
Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải theo hướng ấy.
Chúng tôi đề nghị hoãn kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc vì chưa cần thiết, tốn kém lớn và đã được chứng minh bằng các phân tích khoa học là không có hiệu quả. Thay vào đó, cần tu bổ nâng cấp đường sắt Thống Nhất, mở rộng mạng lưới đường sắt phổ thông đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Bắc, đồng thời xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam và xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ nối nông thôn với đường sắt và đường cao tốc này, nhất là nối nông thôn với các đô thị gần đường cao tốc. Kết cấu hạ tầng như vậy mới thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn.
Liên quan đến phát triển nông thôn, việc cải cách chế độ hạn điền cần được đẩy mạnh. Chế độ hộ khẩu đã được cải thiện nhiều nhưng mỗi đô thị lại có các quy chế riêng, cần cải cách theo hướng tự do hóa việc thay đổi chỗ ở hơn nữa để người dân khi đến đô thị làm việc có thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông thôn.
Với sự phân tán, manh mún của ruộng đất hiện nay, việc tăng năng suất nông nghiệp gặp khó khăn. Tăng năng suất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Đối với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành phố lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên nhân là do thị trường lao động chưa phát triển, cung và cầu không gặp nhau.
Một nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh nghiệp,...) không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Biện pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm chính sách ngắn hạn (phát triển thị trường lao động) và chính sách trung dài hạn (nâng cao chất lượng lao động, tăng cường giáo dục nghề nghiệp). Chính quyền địa phương ở nông thôn cần tích cực hơn nữa trong lĩnh vực này.
Một vấn đề khác là cải cách doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn. Cần đặt các doanh nghiệp đó trong khung cảnh chung của luật pháp, xóa bỏ việc để hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh nhằm hạn chế sự thao túng của các nhóm lợi ích.
Doanh nghiệp quốc doanh dùng tiền của dân và nhằm phục vụ dân, do đó phải có tiếng nói của đại diện nhân dân. Hội đồng quản trị có đại diện của dân do các tổ chức hội chuyên nghiệp và Mặt trận Tổ quốc đề cử, có đại diện của người tiêu dùng chính do các ngành sử dụng đề cử, có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp do các hội chuyên gia đề cử.
Để cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực sự phục vụ nhân dân thì phải có các tổ chức chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc. Đặc biệt, phải công khai, minh bạch trong việc cấp vốn, việc cấp và sử dụng các nguồn lực quốc gia cho các doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài những trường hợp đặc biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước đã được công khai, minh bạch, chính sách cần bảo đảm công bằng cơ hội, bảo đảm hiệu quả sử dụng và không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt giữa các công ty, kiểm soát và hạn chế việc sử dụng lãng phí các nguồn lực quốc gia.
Trong cơ chế thị trường, những chính sách vừa nói được thực thi triệt để thì nền kinh tế sẽ tự cái cấu trúc theo hướng hiệu suất và phát triển bền vững.
Việt Nam hiện nay cũng có những cơ quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay Bộ Công thương nhưng quyền hạn liên quan tới vấn đề này bị phân tán, ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, vì vậy thường khó có thể đề xuất được những chính sách hiệu quả, hoặc do phải cân nhắc lợi ích của quá nhiều đối tượng nên những nội dung thống nhất được cũng mang tính thỏa hiệp, chung chung.
Để giải quyết tình trạng này, chúng tôi đề nghị nhà nước cần tập trung những chuyên gia có trình độ, thành lập một bộ phận chuyên trách để xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh nhân và trí thức.
Cải cách tiền lương và thi tuyển quan chức
Trong lĩnh vực kinh tế, ngoài vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế, còn điểm gì khác mà ông thấy quan trọng?
Có một vấn đề rất quan trọng nhưng không giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan đến mọi mặt của xã hội. Đó là chúng ta cần một chính phủ mạnh và hiệu quả ở cả trung ương và địa phương. Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt lõi của nhiều vấn đề.
Cải cách chế độ tiền lương là một việc tuy khó nhưng cấp bách và không thể trì hoãn, vì nếu không sẽ không thể giải quyết được vấn đề nào khác. Thiết nghĩ, đây là vấn đề nan giải nhưng không hẳn là không có giải pháp nếu nhà nước thực lòng quyết tâm. Trước mắt, chúng tôi đề khởi một số nội dung cải cách như sau:
Thứ nhất, hiện tượng phổ biến hiện nay là tiền lương chỉ chiếm một phần nhỏ trong thu nhập của quan chức, công chức, thầy giáo, v.v.. Do đó, trước tiên phải minh bạch hóa các nguồn thu nhập này và lần lượt đưa vào lương.
Thứ hai, cải cách thuế để tăng thu ngân sách. Đặc biệt cần đánh thuế lưu thông bất động sản, đánh thuế suất cao đối với những người sở hữu nhiều bất động sản, và đánh thuế thừa kế tài sản.
Thứ ba, tăng tỉ lệ tiền lương trong tổng thu ngân sách. Trước mắt giảm tỉ lệ đầu tư công lấy từ ngân sách, hoãn những dự án đầu tư lớn cần nhiều vốn nhưng chưa thật cần thiết..
Thứ tư, tinh giảm bộ máy công quyền ở trung ương và địa phương.
Nhà nước cần lập ngay một ban chuyên trách về cải cách tiền lương gồm các chuyên gia kinh tế, tài chính, hành chính. Ban chuyên trách này sẽ khẩn trương nghiên cứu, xem xét 4 nội dung cải cách nói trên, để trong thời gian ngắn đưa ra đề án cải cách khả thi.
Quan chức, công chức phải là những người được tuyển chọn nghiêm túc qua các kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình họ phải được bảo đảm bằng tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ máy công quyền.
Nội dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống cũng cần chú trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ cao cấp hơn và thêm các chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự khó khăn phải vượt qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng tự trọng của quan chức, tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng.
Việc thi tuyển quan chức còn có tác dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình đẳng thi thố tài năng cho việc nước. Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan chức cần được thực hiện trong vòng 3-4 năm tới.
Nặng tư duy nhiệm kỳ, đua nhau ‘chạy’ dự án
Mỗi lãnh đạo tỉnh khi mới lên chức đều phải cố gắng để lại dấu ấn nào đó trong nhiệm kỳ của mình mà thành tích lại tính theo tăng trưởng GDP nên ai cũng phải cố "xin" làm một dự án gì đó hoành tráng. – Nguyên Phó TT Vũ Khoan nhấn mạnh.
Bên lề hội thảo về tái cơ cấu đầu tư công do Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và đầu tư tổ chức vừa qua, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã chia sẻ với Diễn đàn kinh tế Việt Nam, báo VietNamNet về câu chuyện này.
Tư duy nhiệm kỳ là triệu chứng của cơ chế
- Thưa ông, nhiều chuyên gia đã phê bình rằng, nguyên nhân gốc rễ của những yếu kém trong đầu tư công hiện nay là căn bệnh tư duy nhiệm kỳ. Ông nhìn nhận thế nào về điều này?
Ông Vũ Khoan: Tôi cho rằng, đây cũng là một hiện tượng xã hội hết sức bình thường, nhưng vì sao, giờ trong điều hành kinh tế xã hội hiện nay, lại vẫn "đẻ" ra cái này thì chúng ta phải xét tới gốc rễ. Gốc rễ có vấn đề mà chúng ta không phá bỏ thì không được.
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay thực chất vẫn dựa trên cơ chế bao cấp, tập trung hóa, mà biển hiệu là cơ chế xin- cho. Chuyện đầu tư công không hiệu quả ở ta đã kéo dài suốt từ trong quá khứ cho đến nay. Vì trong gen của chúng ta chưa thoát được cơ chế quan liêu, làm kế hoạch hóa đó nên hành vi vẫn chứa đựng tính cách này, vẫn phân bổ ngân sách, phân bổ chiếc bánh theo kiểu anh xin tôi cho, trung ương phân cấp cho địa phương...
Thứ hai là quy hoạch kinh tế xã hội hiện vẫn chia cắt và thực hiện lẫn lộn giữa địa giới hành chính và không gian kinh tế. Mỗi tỉnh là một nền kinh tế hoàn chỉnh với đầy đủ cơ cấu ngành, lĩnh vực...
Cơ chế với 2 nhánh gốc rễ như vậy đã "đẻ" ra tư duy nhiệm kỳ, địa phương chủ nghĩa. Nói cách khác, tư duy nhiệm kỳ chỉ là hiện tượng bên ngoài, là triệu chứng của cơ chế thôi. Nếu không triệt tiêu cái nguồn gốc sinh ra tư duy như vậy mà cứ giải quyết cái phần ngọn thì chúng ta sẽ chẳng thay đổi được gì.
- Ông thẳng thắn nhìn nhận, căn bệnh tư duy nhiệm kỳ hiện nay đang hoành hành như thế nào?
Ông Vũ Khoan: Tập trung hóa, quan liêu bao cấp vẫn còn hiện diện. Mỗi nhà lãnh đạo tỉnh khi mới lên chức đều phải cố gắng để lại dấu ấn nào đó trong nhiệm kỳ của mình. Thế nên, chẳng tội gì các vị ấy không đi xin cái gì đó để có được dấu ấn. Thành tích, vị trí của địa phương lại tính theo tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm nên địa phương phải làm gì đó để GDP của mình hoành tráng chứ!
Rõ ràng là, trong nhiệm kỳ của mình, các nhà lãnh đạo tỉnh, thành phố đều phải thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế xã hội đặt ra, nếu thực hiện thắng lợi những mục tiêu đó thì các vị ở lại, còn không làm được thì e là bị mời nhường ghế cho người khác.
Họ sẽ cố để thực hiện dự án trong thời gian nhiệm kỳ mình để đạt được lợi ích của họ. Vậy nên suy cho cùng, tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có mục đích là làm lợi cho nhóm cá nhân nào đó.
Tư duy như vậy nên các địa phương mới có chuyện "chạy" dự án. Chính cơ chế đã đẻ ra bệnh này.
GDP là định hướng chứ không phải pháp lệnh
- Có ý kiến cho rằng, nên chăng trong các kế hoạch kinh tế xã hội, Chính phủ nên bỏ chỉ tiêu tăng trưởng GDP để bớt động lực sản sinh tư duy nhiệm kỳ? Nhiều nước không dựa vào chỉ tiêu này như một thành tích phát triển.
Ông Vũ Khoan: Đặt ra mục tiêu GDP thì nước nào cũng có cả, chỉ có họ khác mình ở chỗ, chỉ số GDP chỉ là định hướng chứ không phải là pháp lệnh. Ở Việt Nam, khi Quốc hội đưa chỉ tiêu này vào Nghị quyết, nghĩa là Pháp lệnh rồi. Trong khi các nước khác, Quốc hội chỉ thông qua các cân đối ngân sách chứ không thông qua chỉ tiêu GDP phải là bao nhiêu %, lạm phát phải bao nhiêu.
Vì người ta quan niệm, đánh giá GDP của địa phương tăng lên bao nhiêu là do doanh nghiệp làm, Nhà nước không đánh giá vai vế của địa phương về chuyện đó, mà đánh giá an sinh xã hội ra sao, đánh giá việc quản lý hành chính, chính trị như thế nào. Vì lẽ đó, các nhà lãnh đạo địa phương không phải chạy theo nhiệm kỳ như ở ta.
Cái gốc của một quốc gia phát triển hưng thịnh chính là cân đối vĩ mô đảm bảo, ổn định. Nếu Quốc hội thông qua các cân đối vĩ mô này thì lạm phát không thể tăng vọt.
- Thưa ông, ngay cả bây giờ, kỳ họp Quốc hội thảo luận về kế hoạch kinh tế xã hội năm 2012 rồi kế hoạch giai đoạn 5 năm vẫn theo cách cũ, với các mục tiêu GDP, CPI, phân bổ ngân sách... Làm sao chúng ta thay đổi được tư duy nhiệm kỳ đã tồn tại trong gen chúng ta từ nhiều năm nay?
Ông Vũ Khoan: Đúng là, trong bối cảnh đã chuyển sang kinh tế thị trường rồi nhưng cách làm kế hoạch kinh tế xã hội hiện nay của chúng ta vẫn thể hiện là hành động kiểu tập trung bao cấp, kể từ việc xây dựng kế hoạch cho tới khi thông qua kế hoạch. Lời nói và hành động không đi đôi với nhau.
Tuy nhiên, chúng ta không thể mong nói thay đổi tư duy nhiệm kỳ hôm trước mà hôm sau làm ngay được. Thay đổi nếp nghĩ, nếp tư duy đã hình thành tồn tại lâu là rất khó. Bản thân kế hoạch 5 năm đã thế rồi thì "cựa" đi đâu nữa? Cho nên, ta phải dần dần có thời gian để làm việc này và phải có quyết tâm rất cao mới có thể làm được.
Trong đó, điều cơ bản hiện giờ là chúng ta cần triệt hẳn cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liệu bao cấp đi. Chúng ta phải thay đổi tư duy, đơn cử như việc doanh nghiệp Nhà nước phải đặt trong thế bình đẳng với tất cả doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào phải làm nhiệm vụ chính trị thì Nhà nước hãy đặt hàng riêng, thanh toán riêng. Doanh nghiệp Nhà nước không có tội nhưng do cơ chế nên bị biến thành như vậy. Họ lẫn lộn giữa nhiệm vụ chính trị và kinh tế, giờ chúng ta phải tách bạch hai vấn đề này ra.
Nói dễ nhưng làm không dễ đâu vì thay đổi mạnh sẽ khiến thay đổi lại hết mọi cân đối, tính toán. Nên bàn về tái cơ cấu đầu tư công vẫn phải trở lại câu hỏi muôn thuở: bắt đầu từ đâu? Lộ trình thế nào? Chứ nếu thay đổi liên tục thì rất khó, không thể nào làm được.
Tư duy nhiệm kỳ là triệu chứng của cơ chế
- Thưa ông, nhiều chuyên gia đã phê bình rằng, nguyên nhân gốc rễ của những yếu kém trong đầu tư công hiện nay là căn bệnh tư duy nhiệm kỳ. Ông nhìn nhận thế nào về điều này?
Ông Vũ Khoan: Tôi cho rằng, đây cũng là một hiện tượng xã hội hết sức bình thường, nhưng vì sao, giờ trong điều hành kinh tế xã hội hiện nay, lại vẫn "đẻ" ra cái này thì chúng ta phải xét tới gốc rễ. Gốc rễ có vấn đề mà chúng ta không phá bỏ thì không được.
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay thực chất vẫn dựa trên cơ chế bao cấp, tập trung hóa, mà biển hiệu là cơ chế xin- cho. Chuyện đầu tư công không hiệu quả ở ta đã kéo dài suốt từ trong quá khứ cho đến nay. Vì trong gen của chúng ta chưa thoát được cơ chế quan liêu, làm kế hoạch hóa đó nên hành vi vẫn chứa đựng tính cách này, vẫn phân bổ ngân sách, phân bổ chiếc bánh theo kiểu anh xin tôi cho, trung ương phân cấp cho địa phương...
Thứ hai là quy hoạch kinh tế xã hội hiện vẫn chia cắt và thực hiện lẫn lộn giữa địa giới hành chính và không gian kinh tế. Mỗi tỉnh là một nền kinh tế hoàn chỉnh với đầy đủ cơ cấu ngành, lĩnh vực...
Cơ chế với 2 nhánh gốc rễ như vậy đã "đẻ" ra tư duy nhiệm kỳ, địa phương chủ nghĩa. Nói cách khác, tư duy nhiệm kỳ chỉ là hiện tượng bên ngoài, là triệu chứng của cơ chế thôi. Nếu không triệt tiêu cái nguồn gốc sinh ra tư duy như vậy mà cứ giải quyết cái phần ngọn thì chúng ta sẽ chẳng thay đổi được gì.
- Ông thẳng thắn nhìn nhận, căn bệnh tư duy nhiệm kỳ hiện nay đang hoành hành như thế nào?
Ông Vũ Khoan: Tập trung hóa, quan liêu bao cấp vẫn còn hiện diện. Mỗi nhà lãnh đạo tỉnh khi mới lên chức đều phải cố gắng để lại dấu ấn nào đó trong nhiệm kỳ của mình. Thế nên, chẳng tội gì các vị ấy không đi xin cái gì đó để có được dấu ấn. Thành tích, vị trí của địa phương lại tính theo tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm nên địa phương phải làm gì đó để GDP của mình hoành tráng chứ!
Việt Nam có tới hơn 100 cảng biển, nhưng phần nhiều trong số đó hoạt động không hiệu quả. Đó là hệ quả của đầu tư công tràn lan dẫn tới cuộc chạy đua cảng biển. Ảnh minh họa |
Họ sẽ cố để thực hiện dự án trong thời gian nhiệm kỳ mình để đạt được lợi ích của họ. Vậy nên suy cho cùng, tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có mục đích là làm lợi cho nhóm cá nhân nào đó.
Tư duy như vậy nên các địa phương mới có chuyện "chạy" dự án. Chính cơ chế đã đẻ ra bệnh này.
GDP là định hướng chứ không phải pháp lệnh
- Có ý kiến cho rằng, nên chăng trong các kế hoạch kinh tế xã hội, Chính phủ nên bỏ chỉ tiêu tăng trưởng GDP để bớt động lực sản sinh tư duy nhiệm kỳ? Nhiều nước không dựa vào chỉ tiêu này như một thành tích phát triển.
Ông Vũ Khoan: Đặt ra mục tiêu GDP thì nước nào cũng có cả, chỉ có họ khác mình ở chỗ, chỉ số GDP chỉ là định hướng chứ không phải là pháp lệnh. Ở Việt Nam, khi Quốc hội đưa chỉ tiêu này vào Nghị quyết, nghĩa là Pháp lệnh rồi. Trong khi các nước khác, Quốc hội chỉ thông qua các cân đối ngân sách chứ không thông qua chỉ tiêu GDP phải là bao nhiêu %, lạm phát phải bao nhiêu.
Vì người ta quan niệm, đánh giá GDP của địa phương tăng lên bao nhiêu là do doanh nghiệp làm, Nhà nước không đánh giá vai vế của địa phương về chuyện đó, mà đánh giá an sinh xã hội ra sao, đánh giá việc quản lý hành chính, chính trị như thế nào. Vì lẽ đó, các nhà lãnh đạo địa phương không phải chạy theo nhiệm kỳ như ở ta.
Cái gốc của một quốc gia phát triển hưng thịnh chính là cân đối vĩ mô đảm bảo, ổn định. Nếu Quốc hội thông qua các cân đối vĩ mô này thì lạm phát không thể tăng vọt.
- Thưa ông, ngay cả bây giờ, kỳ họp Quốc hội thảo luận về kế hoạch kinh tế xã hội năm 2012 rồi kế hoạch giai đoạn 5 năm vẫn theo cách cũ, với các mục tiêu GDP, CPI, phân bổ ngân sách... Làm sao chúng ta thay đổi được tư duy nhiệm kỳ đã tồn tại trong gen chúng ta từ nhiều năm nay?
Ông Vũ Khoan: Đúng là, trong bối cảnh đã chuyển sang kinh tế thị trường rồi nhưng cách làm kế hoạch kinh tế xã hội hiện nay của chúng ta vẫn thể hiện là hành động kiểu tập trung bao cấp, kể từ việc xây dựng kế hoạch cho tới khi thông qua kế hoạch. Lời nói và hành động không đi đôi với nhau.
Tuy nhiên, chúng ta không thể mong nói thay đổi tư duy nhiệm kỳ hôm trước mà hôm sau làm ngay được. Thay đổi nếp nghĩ, nếp tư duy đã hình thành tồn tại lâu là rất khó. Bản thân kế hoạch 5 năm đã thế rồi thì "cựa" đi đâu nữa? Cho nên, ta phải dần dần có thời gian để làm việc này và phải có quyết tâm rất cao mới có thể làm được.
Trong đó, điều cơ bản hiện giờ là chúng ta cần triệt hẳn cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liệu bao cấp đi. Chúng ta phải thay đổi tư duy, đơn cử như việc doanh nghiệp Nhà nước phải đặt trong thế bình đẳng với tất cả doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào phải làm nhiệm vụ chính trị thì Nhà nước hãy đặt hàng riêng, thanh toán riêng. Doanh nghiệp Nhà nước không có tội nhưng do cơ chế nên bị biến thành như vậy. Họ lẫn lộn giữa nhiệm vụ chính trị và kinh tế, giờ chúng ta phải tách bạch hai vấn đề này ra.
Nói dễ nhưng làm không dễ đâu vì thay đổi mạnh sẽ khiến thay đổi lại hết mọi cân đối, tính toán. Nên bàn về tái cơ cấu đầu tư công vẫn phải trở lại câu hỏi muôn thuở: bắt đầu từ đâu? Lộ trình thế nào? Chứ nếu thay đổi liên tục thì rất khó, không thể nào làm được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Có ý kiến gì không?